Nguồn vốn tài chính quốc tế cho phát triển xanh rẻ hơn
Ông Trần Hoài Nam, Phó Tổng Giám đốc HDBank cho biết, đến năm 2040, Việt Nam sẽ cần 368 tỷ USD để đạt Net Zero. Trong khi đó, số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam đến 30/6/2023 còn khá khiêm tốn, đạt gần 528,3 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Do đó, việc tìm nguồn vốn cho phát triển xanh là thách thức không nhỏ.
"Chúng ta hay nói là lấy nguồn vốn tài chính quốc tế cho phát triển xanh sẽ rẻ hơn, nhưng thực tế hiện tại không còn rẻ nữa. Thậm chí, nguồn vốn trong nước hiện còn rẻ hơn quốc tế. Lãi suất của Mỹ, các nước châu Âu đang ở mức rất cao, cao hơn Việt Nam, chưa bao giờ có tình cảnh như hiện nay. Tuy nhiên, nguồn vốn từ định chế tài chính quốc tế vẫn quan trọng trong lâu dài để tiến đến trái phiếu xanh, tín dụng xanh", ông Nam nhấn mạnh.
Về vấn đề này, đại diện Ngân hàng SHB cho biết, nhà băng này đã hợp tác với các đối tác quốc tế như WB, IFC, ADB, KfW… từ rất sớm, và hiện đang tiếp tục tăng cường hợp tác để tìm kiếm nguồn vốn trung dài hạn ưu đãi, đồng thời tư vấn về an toàn, kỹ thuật nhằm hỗ trợ cho khách hàng và SHB trong việc thực hiện, tài trợ có hiệu quả các dự án.
Liên quan đến nguồn vốn phát triển dự án xanh, bà Lâm Thúy Nga, Giám đốc toàn quốc Khối khách hàng doanh nghiệp lớn Ngân hàng HSBC Việt Nam chia sẻ: "Với vị thế ngân hàng toàn cầu, HSBC có những tham vọng lớn với phát triển xanh. Sau khi Thủ tướng công bố tại COP 26, HSBC đã cam kết thu xếp 12 tỷ USD tài trợ phát triển bền vững cho Việt Nam, hiện tại đã thu xếp được 2 tỷ USD”.
Theo bà Nga, ngoài việc thu xếp vốn cho các dự án, HSBC cũng đồng hành với khách hàng trong chuyển đổi xanh, giúp họ chuyển đổi công nghệ, xây dựng các khung chính sách. Năm 2021, HSBC đã làm việc với Vingroup xây dựng khung tài trợ xanh, thu xếp trái phiếu chuyển đổi bền vững đầu tiên.
Các tổ chức tín dụng cũng đã thể hiện sự quan tâm lớn tới trách nhiệm phát triển tín dụng xanh, xây dựng chính sách cấp tín dụng ưu đãi đối với khách hàng có phương án, dự án sản xuất, kinh doanh đáp ứng mục tiêu tăng trưởng xanh trong bối cảnh nhu cầu đối với những sản phẩm xanh, sản phẩm đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường ngày càng tăng mạnh.
Trong số 12 lĩnh vực xanh, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 45%) và nông nghiệp xanh (31%). Các tổ chức tín dụng đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt khoảng 2.485 triệu tỷ đồng, chiếm gần 20% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế.
Tín dụng xanh đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế
Theo các chuyên gia, các khoản cho vay tín dụng xanh thường là các khoản cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, kể từ ngày 1/10, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các ngân hàng giảm về 30% cũng là vấn đề khó khăn cho các ngân hàng muốn mở rộng tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực xanh.
Trong khi đó, ông Trần Hoài Phương, Giám đốc khối khách hàng doanh nghiệp HDBank cho rằng, không nhất thiết cho vay tín dụng xanh là vốn trung và dài hạn, dù đúng là nhiều dự án xanh cần nguồn vốn trung và dài hạn. Cũng có nhiều trường hợp, chẳng hạn như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp hay xuất khẩu vay vốn ngắn hạn.
"Trong bối cảnh hiện nay, chiến lược quản lý rủi ro và phân bổ nguồn vốn của ngân hàng sẽ càng quan trọng", ông Phương nói.
TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, sự phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng Việt Nam còn nhiều khó khăn, thách thức như: Cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại chậm chân. Có ngân hàng chưa xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội, chưa có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro với mảng này,…
Theo ông Hùng, xanh hóa nền kinh tế đang là xu hướng toàn cầu và ngày càng được quan tâm trong các chương trình nghị sự quốc tế, nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực từ tăng trưởng kinh tế đến môi trường và xã hội.
Ông Hùng cho biết, tại Việt Nam, tín dụng xanh, ngân hàng xanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc triển khai thành công chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, tạo nguồn lực giúp các doanh nghiệp đầu tư dự án, chương trình, cơ sở hạ tầng nhằm giảm thiểu phát thải, bảo vệ môi trường.
PGS. TS. Trần Đình Thiên, Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cho hay, trong giai đoạn 2011-2021, Việt Nam đã đạt được những bước tiến lớn trong việc huy động đầu tư cho chống biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tế thì dòng vốn huy động vẫn còn thấp hơn rất nhiều.
Theo bà Từ Thị Kim Thanh, Thành viên Hội đồng thành viên Agribank, các tiêu chí đánh giá và danh mục dự án xanh chưa đầy đủ nên các ngân hàng thương mại còn gặp khó khăn trong việc xác định đâu là các dự án hay hạng mục dự án đáp ứng được các tiêu chí sàng lọc, tiêu chí ngưỡng, tiêu chí môi trường cụ thể để có thể huy động vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, các quỹ tín dụng xanh. Do đó, các ngân hàng thương mại bị bỏ lỡ nhiều cơ hội nhận các khoản đầu tư.
Trong khi đó, vốn ODA vào Việt Nam có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Cụ thể, giai đoạn 2012-2021, nguồn tài chính phát triển quốc tế cho chống biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh vào Việt Nam khoảng 2,26 tỷ USD mỗi năm, trong đó có khoảng 39% là dành cho các hoạt động chống chịu, 49% cho các hoạt động giảm nhẹ, 12% cho các hoạt động đồng lợi ích. Còn hiện nay, trong các dự báo vĩ mô, Chính phủ không kỳ vọng ODA sẽ tăng đáng kể, trung bình chỉ khoảng 4 tỷ USD trong giai đoạn 2021-2025.
Nghệ Nhân