Phát biểu đề dẫn tọa đàm, Phó Tổng Biên tập Báo Hànộimới Lại Bá Hà cho biết, theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với các doanh nghiệp tư nhân tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng 6,91 triệu tỷ đồng, tăng 14,72% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế.
Tuy nhiên, khoảng trống tài chính với doanh nghiệp tư nhân, nhất là doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ còn khá lớn. Rào cản chủ yếu do tài sản thế chấp hạn hẹp. Ngoài ra, chi phí tuân thủ cao, hồ sơ vay mất khá nhiều thời gian.
“Chính vì vậy, các chính sách ưu tiên tín dụng trong Nghị quyết số 68-NQ/TƯ có ý nghĩa như “trục xoay” để chuyển mô hình cho vay từ “thế chấp - kiểm soát” sang “dữ liệu - đồng hành”, giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa Hà Nội giải bài toán chi phí vốn, đồng thời, thúc đẩy ngân hàng - FinTech liên kết sâu hơn”, ông Hà nói.
![]() |
Tọa đàm trực tuyến với chủ đề “Khơi thông nguồn vốn nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển”. Ảnh: Hà Anh |
Chia sẻ về thực trạng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay, ông Mạc Quốc Anh - Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội - cho biết, thực trạng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa đang là một trong những điểm nghẽn lớn nhất ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam.
Trong vai trò là tổ chức đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Hà Nội, Hiệp hội ghi nhận hàng loạt phản ánh, kiến nghị liên quan đến các khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là vốn tín dụng ngân hàng và các kênh tài chính chính thức.
Phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có khả năng chứng minh hiệu quả kinh doanh một cách minh bạch và khoa học qua hệ thống báo cáo tài chính đạt chuẩn. Khoảng 60% doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa thực hiện kiểm toán độc lập, và nhiều đơn vị vẫn sử dụng sổ sách kế toán nội bộ không đáp ứng chuẩn mực theo yêu cầu của ngân hàng.
Đây là nguyên nhân khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc định giá mức độ rủi ro tín dụng và thường từ chối cấp vốn hoặc chỉ phê duyệt ở mức thấp. Bên cạnh đó, khung pháp lý về bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn rất phân tán, chồng chéo.
Cũng theo ông Quốc Anh, hiện các chính sách từ Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (2017) cho đến các Nghị định hướng dẫn vẫn chưa đồng bộ với thực tiễn, đặc biệt ở khâu tổ chức thực hiện. Các Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trung ương và địa phương hoạt động còn hạn chế.
Trong bối cảnh nợ xấu tăng cao và thị trường bất động sản còn trầm lắng, các ngân hàng ngày càng thận trọng hơn với việc cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay, bởi tệp doanh nghiệp này vốn được xem là có mức độ rủi ro tín dụng cao hơn các tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Chưa kể, chi phí tiếp cận vốn cũng là rào cản lớn.
Lãi suất cho vay thực tế mà doanh nghiệp nhỏ và vừa đang chịu dao động từ 9% đến 12%/năm, cao hơn mức trung bình trong khu vực ASEAN từ 2-4 điểm phần trăm. Đối với những doanh nghiệp khởi nghiệp hoặc đang đổi mới mô hình sản xuất theo hướng chuyển đổi xanh, đây là áp lực tài chính cực lớn, khiến nhiều doanh nghiệp lựa chọn... rút lui khỏi thị trường.
![]() |
Ông Mạc Quốc Anh phát biểu tại tọa đàm. Ảnh: Hà Anh |
“Có thể khẳng định, việc tiếp cận vốn hiện nay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn rất nhiều rào cản, xuất phát từ cả phía doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng và khung thể chế. Nếu không được khơi thông kịp thời, đây sẽ tiếp tục là lực cản lớn nhất đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân – khu vực đang đóng góp trên 40% GDP và hơn 85% tổng số việc làm toàn xã hội”, ông Quốc Anh lo ngại.
Theo ông Nguyễn Hoàng Long - Chủ tịch HĐQT Doanh nghiệp Start-up về công nghệ xanh, từ thực tế tham gia điều hành khoảng 5 doanh nghiệp, ông thấy tỷ lệ vốn tín dụng ngân hàng trong các doanh nghiệp là 0%, chủ yếu là vốn tự có. Các doanh nghiệp Start-up chủ yếu trông cậy vào vốn của các quỹ, với độ mở của nguồn vốn này cao hơn rất nhiều so với ngân hàng.
Với doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, doanh thu 300 tỷ đồng/năm trở xuống, nguồn tín dụng ngân hàng rất có ý nghĩa, là nguồn bổ sung vào vốn lưu động. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận hiện nay đang khó, chủ yếu do hạn chế về tài sản thế chấp.
Các doanh nghiệp đều là doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn. Các cổ đông, thành viên chỉ nên chịu trách nhiệm cho phần vốn góp vào. Tuy nhiên, hiện nay, họ đều phải mang tài sản cá nhân đi thế chấp, tức “phá hạn” trách nhiệm, khiến họ chịu nhiều trách nhiệm hơn với phần đóng góp vào doanh nghiệp.
Ông Long mong muốn thị trường tín dụng sẽ có những đổi mới theo hướng mở, tạo ra cơ hội vay tín chấp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, như với cá nhân. Ngoài ra, các ngân hàng sẽ tư vấn, giúp doanh nghiệp xây dựng kế hoạch kinh doanh bài bản, có tính khả thi cao, qua đó đánh giá điểm tín dụng làm căn cứ cho vay, hơn là họ phải mang tài sản cá nhân ra thế chấp.