Thứ hai 12/05/2025 00:51
Hotline: 024.355.63.010
Tài chính

Thách thức giảm lãi suất cho vay và nợ xấu

18/10/2021 15:05
Trong kế hoạch cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021-2025, cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng tiếp tục được xem là nhiệm vụ hàng đầu.

Tiếp tục tái cơ cấu các tổ chức tín dụng để hỗ trợ nền kinh tế

Sau năm năm tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 với một số kết quả nhất định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gần đây tiếp tục đề xuất kế hoạch cơ cấu nền kinh tế cho giai đoạn 2021-2025, với năm nội dung trọng tâm và chín nhóm chỉ tiêu cụ thể.

Kế hoạch trên đặt ra giữa lúc nền kinh tế đang phải vật lộn với tăng trưởng suy giảm và bất ổn gia tăng do ảnh hưởng của đại dịch Covid 19, đe dọa sự sống còn của hệ thống doanh nghiệp, cũng như nguy cơ nợ xấu tăng vọt trong hệ thống ngân hàng.

Chính vì vậy, không có gì lạ khi cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp tục được xem là nhiệm vụ hàng đầu cho giai đoạn tới, nhằm hướng đến việc củng cố nền tảng vĩ mô, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế và hỗ trợ quá trình cơ cấu lại nền kinh tế.

Yêu cầu cơ cấu lại hệ thống các TCTD đưa ra sáu mục tiêu cụ thể đi kèm với bảy nhóm nhiệm vụ – giải pháp, trong đó bên cạnh các mục tiêu mới cũng có những mục tiêu cũ mà đề án tái cơ cấu đặt ra trước đây chưa kịp hoàn thành. Tuy nhiên, ở đây chỉ tập trung vào hai mục tiêu đầu tiên mà cũng có thể xem là quan trọng và cấp thiết nhất hiện nay, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi của nền kinh tế trong giai đoạn tới.

Mục tiêu giảm lãi suất cho vay: không dễ!

Mục tiêu đầu tiên tiếp tục là “giảm lãi suất cho vay trung bình xuống mức chênh lệch hợp lý so với mức lãi suất huy động và có tính cạnh tranh so với mức lãi suất cho vay trung bình tại các nước trong khu vực, phù hợp với thay đổi về cấu trúc kinh tế”. Vấn đề đặt ra ở đây: mức “chênh lệch” bao nhiêu được xem là hợp lý và có tính cạnh tranh?

Dù mặt bằng lãi suất cho vay lẫn tiền gửi đã giảm đáng kể trong nhiều năm qua, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là các đợt giảm lãi suất cho vay bao giờ cũng chậm hơn và ít hơn so với mức giảm của lãi suất tiền gửi. Điều này, một phần bởi vì chênh lệch đáo hạn giữa hoạt động cho vay và huy động, khi các ngân hàng có xu hướng huy động ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn, theo đó khoảng cách giữa các lần điều chỉnh lãi suất theo hợp đồng cho vay thường dài hơn, cũng như phụ thuộc vào chính sách và động lực của chính các ngân hàng.

Hiện nay, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động phổ biến nằm trong khoảng từ 2,5-5 điểm phần trăm/năm tùy theo sản phẩm và kỳ hạn, cá biệt những khoản vay tiêu dùng tín chấp chênh lệch có thể lên tới 7-8 điểm phần trăm/năm.

Do đó, có thể thấy, mục tiêu giảm chênh lệch lãi suất cho vay và huy động xuống mức “hợp lý” còn chung chung khi vẫn chưa xác định được con số định lượng cụ thể.

Ngoài ra, việc tiếp tục giảm lãi suất cho vay trung bình trong thời gian tới cũng sẽ gặp không ít thách thức.

Đầu tiên là xu hướng thắt chặt tiền tệ và tăng lãi suất trở lại trên toàn cầu sẽ mạnh hơn trong những năm tới và Việt Nam có lẽ cũng khó lòng nằm ngoài xu hướng chung.

Thứ hai là xu hướng giá hàng hóa toàn cầu tiếp tục đi lên hiện nay càng tạo thêm áp lực lạm phát cao quay trở lại, kéo theo áp lực lên lãi suất tiền gửi của ngân hàng.

Thứ ba là với chính sách kích cầu đầu tư công để thúc đẩy kinh tế phục hồi nhanh hơn, hàng loạt dự án cơ sở hạ tầng sẽ được đẩy mạnh triển khai kéo theo nhu cầu huy động vốn của Chính phủ, từ đó có thể dẫn đến hiệu ứng lấn át, tức khi Chính phủ tăng vay nợ sẽ khiến lãi suất tăng và khu vực tư nhân bị hạn chế tiếp cận vốn hoặc phải chấp nhận lãi suất cao hơn.

Cuối cùng, gánh nặng nợ xấu cũng sẽ hạn chế động lực giảm thêm lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng, khi quá khứ những năm trước đây từng chứng kiến cục máu đông nợ xấu đã khiến các ngân hàng phải tìm cách duy trì mặt bằng lãi suất cho vay cao để bù đắp những thiệt hại do các khoản nợ xấu vì cho vay dễ dãi gây ra. Lần này, với nguy cơ nợ xấu từ các khoản vay buộc phải tái cơ cấu do ảnh hưởng của dịch bệnh, mà chưa biết sẽ còn kéo dài đến đâu, bài toán nợ xấu đang quay trở lại với hệ thống ngân hàng.

Xử lý nợ xấu – tiếp tục là bài toán khó!

Chính vì vậy, mục tiêu quan trọng thứ hai là “nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống các TCTD duy trì ở mức dưới 3%, từng bước phát triển thị trường mua bán nợ”. Có thể thấy mục tiêu xử lý nợ xấu đã được đặt ra liên tiếp trong suốt 15 năm qua, từ Đề án tái cơ cấu 254 cho giai đoạn 2011-2015, đến Đề án 1058 cho giai đoạn 2016-2020 và tiếp tục được nhắc lại ở đề án lần này cho giai đoạn 2021-2025, cho thấy nợ xấu luôn là căn bệnh nan y dai dẳng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Nếu như giai đoạn trước nợ xấu phát sinh từ việc sở hữu chéo kéo theo tình trạng cho vay sân sau của các ông chủ ngân hàng, cũng như rót vốn ồ ạt vào các dự án bất động sản, doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, lần này nợ xấu đến từ những nguyên nhân mang tính khách quan hơn – đó là vì ảnh hưởng của dịch bệnh. Đáng lưu ý là nếu như giai đoạn 2016-2020 việc xử lý nợ xấu đã đạt được kết quả khá tốt, thì chỉ cần từ năm ngoái đến nay nợ xấu lại có nguy cơ tăng vọt và xóa nhòa thành quả này.

Mới đây nhất, số liệu công bố từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết đến cuối tháng 6 vừa qua, tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu là 3,66%. Nếu tính cả các khoản nợ cơ cấu lại do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 thì tỷ lệ này là 7,21% – cao hơn con số 5,08% cuối năm 2020, tương đương con số tuyệt đối là gần 705.500 tỉ đồng, dù sáu tháng đầu năm nay cũng đã xử lý được số nợ xấu nội bảng 78.860 tỉ đồng.

Rõ ràng với các khoản nợ tái cơ cấu thời gian tới không thể xử lý được và buộc phải chuyển thành nợ xấu khi thời hạn tái cơ cấu kết thúc, có thể thấy mục tiêu duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3% là khá thách thức. Nếu nhìn vào tình hình nền kinh tế hiện nay và triển vọng không quá lạc quan trong giai đoạn tới, cũng như bài toán thiếu hụt lực lượng lao động tại các trung tâm kinh tế hậu giãn cách, trong khi tỷ lệ thất nghiệp đi lên, số lượng doanh nghiệp phá sản ngày càng gia tăng, các khoản cho vay của ngân hàng cũng có thể tiếp tục bị ảnh hưởng tiêu cực.

Trước triển vọng không mấy sáng sủa này, dễ hiểu vì sao mục tiêu từng bước phát triển thị trường nợ đi kèm theo sau mục tiêu duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3%. Rõ ràng việc xử lý nợ xấu trong giai đoạn tới không chỉ cần đến nguồn lực của toàn bộ nền kinh tế mà còn cần thu hút được dòng vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Nhưng, xu hướng chính sách tiền tệ toàn cầu thắt chặt trở lại như đã nói, sẽ hạn chế dòng vốn quốc tế tham gia vào thị trường mua bán nợ xấu trong nước.

Vì lẽ đó, NHNN cũng đã sớm có đề xuất xây dựng Luật xử lý nợ xấu theo hướng tiếp tục kế thừa các quy định về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết 42/2017/QH14, khi kết quả cho thấy việc xử lý nợ xấu theo các giải pháp đột phá của Nghị quyết 42 trong bốn năm qua đã đạt những thành tựu nhất định.

Thống kê cho thấy xử lý nợ xấu được xác định theo Nghị quyết 42, lũy kế từ 15-8-2017 đến 30-6-2021, là 359.410 tỉ đồng, trong đó thông qua hình thức khách hàng trả nợ là 138.340 tỉ đồng (chiếm 38,5% tổng nợ xấu theo Nghị quyết 42 đã xử lý), cao hơn nhiều tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu đã xử lý trung bình trong giai đoạn 2012-2017 là khoảng 22,8%.

Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng kiến nghị, trong một số ít trường hợp, có khả năng sử dụng một số nguồn lực nhà nước nhất định để thực hiện các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt là việc cơ cấu lại các TCTD và xử lý nợ xấu. Cần nhắc lại rằng việc sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu ngân hàng đã được thảo luận trong suốt giai đoạn 2011-2015 và kế tiếp là 2016-2020, nhưng chưa bao giờ được thông qua.

Kế hoạch cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 theo tờ trình của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ở nội dung cơ cấu lại hệ thống các TCTD đặt ra sáu mục tiêu cụ thể như sau:

1. Giảm lãi suất cho vay trung bình xuống mức chênh lệch hợp lý so với mức lãi suất huy động và có tính cạnh tranh so với mức lãi suất cho vay trung bình tại các nước trong khu vực, phù hợp với thay đổi về cấu trúc kinh tế.

2. Nợ xấu nội bảng của toàn hệ thống các TCTD duy trì ở mức dưới 3%, từng bước phát triển thị trường mua bán nợ.

3. Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các TCTD; nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh của các TCTD.

4. Có ít nhất từ 2-3 ngân hàng thương mại nằm trong tốp 100 ngân hàng lớn nhất (về tổng tài sản) trong khu vực châu Á và 3-5 ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán nước ngoài. Tất cả ngân hàng thương mại áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn, triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại ngân hàng thương mại nhà nước nắm cổ phần chi phối và ngân hàng thương mại cổ phần có chất lượng quản trị tốt đã hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn.

5. Thúc đẩy chuyển đổi số và phát triển mô hình ngân hàng số nhằm gia tăng trải nghiệm khách hàng trên cơ sở ứng dụng các công nghệ CMCN 4.0. Đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

6. Đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho thúc đẩy ứng dụng và đổi mới công nghệ.

Thụy Lê/thesaigontimes.vn

Tin bài khác
“Cá mập” thoái vốn khỏi Sacombank sau 1 tháng góp mặt

“Cá mập” thoái vốn khỏi Sacombank sau 1 tháng góp mặt

Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - mã: STB) vừa cập nhật danh sách các cổ đông sở hữu từ 1% vốn điều lệ ngân hàng.
Khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh

Khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh

Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, còn nhiều rào cản khiến quy mô tín dụng xanh chưa được như kì vọng.
Lãi suất ngân hàng ngày 10/5/2025: Agribank dẫn đầu nhóm Big4

Lãi suất ngân hàng ngày 10/5/2025: Agribank dẫn đầu nhóm Big4

Lãi suất ngân hàng ngày 10/5/2025, Agribank tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu nhóm Big4 với lãi suất tiết kiệm cao nhất lên đến 4,8%. Đồng thời, các ngân hàng cũng áp dụng lãi suất đặc biệt.
Lãi suất ngân hàng 9/5/2025: Bac A Bank tăng mạnh lãi suất huy động

Lãi suất ngân hàng 9/5/2025: Bac A Bank tăng mạnh lãi suất huy động

Lãi suất ngân hàng ngày 9/5/2025, Bac A Bank gây chú ý khi tăng mạnh lãi suất huy động, đặc biệt ở kỳ hạn dài. Các ngân hàng như ABBank, PVcomBank, HDBank cũng áp dụng lãi suất đặc biệt cao.
Eximbank bổ nhiệm thêm 2 Phó Tổng giám đốc, một người từng là CEO chứng khoán Nhất Việt

Eximbank bổ nhiệm thêm 2 Phó Tổng giám đốc, một người từng là CEO chứng khoán Nhất Việt

Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank, mã CK: EIB) vừa công bố quyết định bổ nhiệm ông Phạm Quang Dũng và ông Trần Anh Thắng giữ chức vụ Phó tổng giám đốc, có hiệu lực từ ngày 8/5/2025.
Lãi suất chỉ từ 3%/năm, HDBank kích hoạt 2 gói vay quy mô 35.000 tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp tăng tốc và chuyển đổi số

Lãi suất chỉ từ 3%/năm, HDBank kích hoạt 2 gói vay quy mô 35.000 tỷ đồng hỗ trợ doanh nghiệp tăng tốc và chuyển đổi số

Nắm bắt thời điểm vàng trong mùa cao điểm sản xuất kinh doanh giữa năm, đồng thời thực hiện định hướng của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước trong chương trình tín dụng trọng điểm 500.000 tỷ đồng thúc đẩy đầu tư hạ tầng và công nghệ số – hai động lực tăng trưởng chiến lược giai đoạn 2025–2030, HDBank tiên phong triển khai hai gói tín dụng quy mô lên đến 35.000 tỷ đồng.
Ngân hàng Việt phân hóa mạnh: Ai tăng tốc, ai hụt hơi quý I/2025?

Ngân hàng Việt phân hóa mạnh: Ai tăng tốc, ai hụt hơi quý I/2025?

Quý I/2025 chứng kiến sự phân hóa rõ rệt trong tăng trưởng tài sản và tiền gửi giữa các ngân hàng, phản ánh chiến lược kinh doanh và khả năng hút vốn khác nhau.
MBS dự báo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại

MBS dự báo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại

Công ty Chứng khoán MBS vừa dự báo lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại cùng cái nhìn toàn diện về diễn biến thị trường tài chính – tiền tệ trong những tháng đầu năm và triển vọng những quý còn lại.
Lãi suất ngân hàng ngày 8/5/2025: Điều chỉnh giảm các kỳ ngắn hạn

Lãi suất ngân hàng ngày 8/5/2025: Điều chỉnh giảm các kỳ ngắn hạn

Lãi suất ngân hàng ngày 8/5/2025 tiếp tục biến động trái chiều giữa các ngân hàng. Trong khi MB và Eximbank giảm kỳ hạn ngắn, nhiều ngân hàng khác vẫn duy trì mức lãi suất cao kỳ hạn dài.
Trái phiếu Chính phủ tháng 4/2025: Huy động thành công 42.427 tỷ đồng trên thị trường sơ cấp

Trái phiếu Chính phủ tháng 4/2025: Huy động thành công 42.427 tỷ đồng trên thị trường sơ cấp

Để đáp ứng nhu cầu vốn của ngân sách trung ương trong năm 2025, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã chủ động triển khai kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) ngay từ đầu năm, đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách vĩ mô.
Lãi suất ngân hàng ngày 7/5/2025: Nhiều biến động trái chiều

Lãi suất ngân hàng ngày 7/5/2025: Nhiều biến động trái chiều

Lãi suất ngân hàng ngày 7/5/2025, nhiều ngân hàng tiếp tục điều chỉnh theo hướng trái chiều. Eximbank giảm lãi ở kỳ hạn ngắn, nhưng tăng ở kỳ hạn dài.
BIDV triển khai định danh điện tử dành cho khách hàng tổ chức

BIDV triển khai định danh điện tử dành cho khách hàng tổ chức

Ngày 5/5/2025, BIDV chính thức ra mắt hệ thống định danh điện tử (eKYC) dành cho khách hàng tổ chức. Với giải pháp này, khách hàng tổ chức có thể thực hiện toàn bộ quy trình mở tài khoản và đăng ký dịch vụ ngân hàng điện tử của BIDV bằng phương thức trực tuyến.
Gia đình nữ đại gia âm thầm gom cổ phiếu ngân hàng ACB là ai?

Gia đình nữ đại gia âm thầm gom cổ phiếu ngân hàng ACB là ai?

Gia đình bà Ngô Thu Thúy bất ngờ nâng sở hữu tại ngân hàng ACB, giữa lúc thị trường tài chính biến động, làm dấy lên nghi vấn: Đơn thuần đầu tư tài sản hay bước đi chiến lược đầy toan tính?
Lãi suất ngân hàng ngày 6/5/2025: Techcombank điều chỉnh tăng lãi suất

Lãi suất ngân hàng ngày 6/5/2025: Techcombank điều chỉnh tăng lãi suất

Lãi suất ngân hàng ngày 6/5/2025, ghi nhận Techcombank tăng lãi suất huy động tại tất cả các kỳ hạn, đánh dấu sự điều chỉnh sau khi giảm lãi suất vào cuối tháng 4.
Nhiều ngân hàng sẽ bị thu hẹp biên lãi ròng vì thương chiến

Nhiều ngân hàng sẽ bị thu hẹp biên lãi ròng vì thương chiến

Các ngân hàng Việt đang chuẩn bị cho một năm 2025 đầy thách thức, với những bất ổn gia tăng từ yếu tố bên ngoài (rủi ro gián đoạn thương mại) và áp lực nội tại từ việc biên lãi ròng (NIM) bị thu hẹp.