Đây là thông tin được đưa ra tại hội thảo Bảo đảm quyền của người lao động Việt Nam di cư do Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo Nhân quyền Chính phủ tổ chức mới đây tại Hải Phòng.
Lượng kiều hối do người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài chuyển về hàng năm ước đạt từ 3 – 4 tỷ USD
Theo thông tin từ ông Nguyễn Gia Liêm, Phó cục trưởng Cục Quản lý Lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), số lượng người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài tăng đều hàng năm, đặc biệt trong 5 năm gần đây, mỗi năm tăng thêm khoảng 10.000 người. Cụ thể, năm 2016: 126 nghìn; năm 2017: 135 nghìn; năm 2018: 143 nghìn; năm 2019: 152 nghìn. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng của Đại dịch Covid-19, số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài giảm xuống còn hơn 78 nghìn người. Cùng với đó, số lượng người lao động Việt Nam hiện đang làm việc tại các thị trường lao động ngoài nước cũng tăng lên đáng kể, từ khoảng 500 nghìn người những năm 2010 đến nay tăng lên khoảng 580 nghìn người.
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng, sản xuất chế tạo, giúp việc gia đình, chăm sóc người già, người bệnh, nông nghiệp, thủy sản,... ở các thị trường chính như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông, Malaysia... Lượng kiều hối do người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài chuyển về trong nước hàng năm ước đạt từ 3 – 4 tỷ USD.
"Kết quả hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài không chỉ góp phần vào công tác giải quyết việc làm (khoảng 7 – 9% số lao động được giải quyết việc làm) mà còn góp phần nâng cao đời sống của người lao động và gia đình. Nhiều gia đình có người thân đi làm việc ở nước ngoài đã thoát nghèo, có điều kiện đầu tư sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, ở những địa phương có nhiều người lao động đi làm việc ở nước ngoài đã làm thay đổi bộ mặt thôn, xóm với nhiều nhà cửa khang trang, góp phần ổn định an sinh xã hội ở địa phương. Người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn nâng cao được trình độ kỹ năng nghề, ngoại ngữ và tác phong làm việc tiên tiến từ nước ngoài, trở thành nguồn nhân lực quan trọng cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", ông Liêm đánh giá.
Bảo đảm người lao động đi làm việc ở nước ngoài hợp pháp
Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực lao động, việc làm nói chung và người lao động đi làm việc ở nước ngoài nói riêng, Nhà nước đã thể chế hóa thành quy định pháp luật, hợp tác với các nước và khu vực trên thể giới thông qua các điều ước và thỏa thuận quốc tế để bảo vệ các quyền và lợi ích của người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại kỳ họp thứ 10, tháng 11 năm 2006, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật số 72/2006/QH-11 Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Tại kỳ hợp lần thứ 10, tháng 11/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật số 69/2020/QH14 sửa đổi Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (gọi tắt là Luật số 69). Luật số 69 được ban hành nhằm đáp ứng các yêu cầu thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm sự đồng bộ của các luật mới ban hành trong thời gian gần đây, cũng như giải quyết được những vướng mắc, bất cập trong thực hiện vừa qua. Điều chỉnh những vấn đề mới từ thực tế hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 và quản lý vấn đề di cư, dịch chuyển lao động quốc tế, phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm việc của công dân. Tương thích với các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết và tham gia.
Luật số 69 đảm bảo quyền của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; bảo đảm người lao động đi làm việc ở nước ngoài hợp pháp; với chủ trương nhằm giảm chi phí của người lao động đi làm việc ở nước ngoài, Luật số 69 đã thể hiện tính ưu việt và phù hợp với xu thể phát triển kinh tế - xã hội, cũng như vị trí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế, đặc biệt vị thế của người lao động Việt Nam ở thị trường lao động quốc tế.
Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Việt Nam có tới hơn 1 triệu người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Năm 2020, do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19, số người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đạt mức hơn 78 nghìn người. Năm 2021, kế hoạch đưa khoảng 90.000 người lao động đi làm việc ở nước ngoài và những năm tiếp theo, khi tình hình dịch COVID-19 ổn định, có khoảng 120 – 150 nghìn người lao động đi làm việc ở nước ngoài hàng năm.
Để thực hiện mục tiêu này, cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế (hệ thống pháp luật) về người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cụ thể là xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định pháp luật quy định và hướng dẫn chi tiết Luật số 69.
Cùng với đó, thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua đó ổn định, phát triển thị trường lao động ngoài nước truyền thống, chú trọng khai thác thị trường lao động, công việc có điều kiện làm việc tốt, an toàn và có thu nhập cao cho người lao động. Kịp thời hỗ trợ và giải quyết các vấn đề phát sinh với người lao động.
Ông Liêm cũng cho rằng: "Người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài phải được đào tạo, giáo dục, định hướng những kiến thức cơ bản về cưỡng bức lao động, phòng chống buôn bán người, bình đẳng giới, lạm dụng tình dục và các kỹ năng phòng ngừa khác".
Theo ông Liêm, thời gian tới cần tiếp tục nâng cao chất lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài, tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác tuyển chọn và đào tạo người lao động (về ngoại ngữ, tay nghề và ý thức tổ chức kỷ luật) để đáp ứng yêu cầu của bên nước ngoài tiếp nhận lao động.
Trình bày ý kiến tại hội thảo, PGS.T Nguyễn Thanh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Quyền con người, cho rằng, để bảo hộ lao động Việt Nam di cư ở nước ngoài, phải rà soát để có định hướng khắc phục những bất cập trong thực thi pháp luật đảm bảo quyền đối với lao động di cư tự do.
Ông cũng đề nghị thành lập cơ quan và đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách có đủ năng lực, tận tụy và có tâm với người lao động di cư, thiết lập sự hợp tác chặt chẽ giữa Việt Nam với các quốc gia nhận và gửi lao động.
Theo ông Tuấn, cần hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ nhằm bảo hộ tốt quyền cho lao động di cư tự do, cung cấp thông tin về các quyền lao động và quyền con người cho người lao động di cư, và hỗ trợ họ thực hiện các quyền này.
"Cơ quan chức năng cần hỗ trợ người lao động trong tất cả giai đoạn di cư, bằng việc cung cấp thông tin, tập huấn và dạy tiếng cho họ, bảo đảm người lao động di cư có thể hiểu và thực hiện các hợp đồng lao động".
Bảo Bảo