Ít ai biết rằng, đằng sau những món đồ tưởng chừng bình dị ấy là cả một hành trình lao động, sáng tạo và đánh đổi của những con người chọn đi ngược với thời đại, để giữ lại điều tinh túy của văn hóa dân tộc.
Giữ nghề giữa nhịp sống hiện đại
Vùng đất châu thổ Cửu Long – nơi con sông ôm ấp phù sa, cũng là nơi hàng trăm nghề truyền thống bén rễ, lan tỏa và kết tinh trong bàn tay tài hoa của những nghệ nhân. Từ những bàn tay đan nên chiếc giỏ, nón lá, tấm chiếu… đến những bàn tay cầm cọ, nắn đất, khắc chữ – tất cả tạo thành một thế giới thẩm mỹ dung dị mà sâu sắc.
Làng nghề gạch gốm Mang Thít, tọa lạc dọc theo dòng sông Cổ Chiên, thuộc các xã Nhơn Phú, Mỹ Phước, An Phước, Mỹ An và Hòa Tịnh của huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long cũ (nay thuộc các xã Cái Nhum, Nhơn Phú, Bình Phước, tỉnh Vĩnh Long mới), đã tồn tại hơn 100 năm. Được mệnh danh là “vương quốc gạch ngói” hay “vương quốc đỏ”. Làng nghề này từng là trung tâm sản xuất gạch nung lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Vào thời kỳ hoàng kim từ những năm 1960 đến 1980, nơi đây có hơn 3.000 lò gạch hoạt động, cung cấp sản phẩm không chỉ cho thị trường trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài.
Ông Nguyễn Văn Theo (61 tuổi), có 30 năm làm gạch cho biết: “Trước đây nơi này nhộn nhịp lắm, giờ thưa thớt rồi. Thanh niên không còn mấy ai theo nghề vì thu nhập thấp, cực mà lời chẳng bao nhiêu”. Câu nói mộc mạc ấy, nghe qua tưởng buồn, nhưng lại chứa đựng niềm tin rằng nghề vẫn sống trong lòng những người còn trân trọng giá trị của đất, lửa và bàn tay.
Không chỉ riêng làng nghề gạch gốm Mang Thít, khắp Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều làng nghề truyền thống vẫn đang âm thầm gìn giữ nghề, giữ hồn văn hóa giữa nhịp sống hiện đại.
![]() |
Hoạt động tại làng nghề gạch gốm Mang Thít. Ảnh: P.V |
Anh Nguyễn Văn Trung, thành viên HTX Quốc Noãn (phường Bình Thủy, TP. Cần Thơ), đã hơn 20 năm gắn bó với nghề đan mây tre. Với anh, đan không chỉ là kỹ năng, mà là một cách giữ gìn ký ức của làng quê.
“Có tháng đơn hàng ít, làm cả tuần chỉ được vài trăm nghìn đồng, nhưng tôi vẫn không bỏ. Vì nếu mình bỏ, lớp sau đâu còn ai biết nghề truyền thông nữa”, anh nói, tay vẫn xoay đều nan mây.
Từng chiếc giỏ, chiếc khay từ xưởng anh Trung đã theo đơn hàng đi ra nước ngoài. Nhỏ thôi, nhưng mang trong đó câu chuyện về một nghề Việt không chịu chết. Đó là niềm tự hào của anh và của cả làng nghề.
Cũng ở Cần Thơ, nghề đan đồ thủ công từ lục bình đang được xem là mô hình “điểm sáng” trong giảm nghèo, khi tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có trên sông, kênh, rạch. Anh Hà Anh Trường – người từng là kỹ sư công nghệ thông tin – đã khởi nghiệp với việc thu gom lục bình và xây dựng thương hiệu Ecoka. Ban đầu chỉ là quy mô nhỏ (10-20 lao động), sau đó mở rộng thành công ty với nhà xưởng 6.500 m² và hơn 600 lao động, với hơn 300 mẫu mã sản phẩm từ lục bình, cói, tre, mây.
Bà Say Mah, nghệ nhân dệt thổ cẩm của người Chăm ở xã Phong Châu, tỉnh An Giang, chia sẻ: “Ngày xưa cả làng ai cũng biết dệt, giờ chỉ còn một vài nhà trụ lại. Nguyên liệu khó kiếm, sức lao động lại nặng, nhưng tôi vẫn dệt từng mét vải, bởi mỗi tấm thổ cẩm là ký ức và hồn quê của chúng tôi.” Những tấm vải bà Say Mah dệt ra không chỉ dùng trong trang phục truyền thống mà còn được các doanh nghiệp thủ công mua lại để làm túi xách, khăn trải bàn, giúp nghề vừa sống vừa phát triển.
So với nhiều ngành nghề khác, người làm nghề truyền thống chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Họ không có dây chuyền hiện đại, không có hợp đồng lớn, càng không có mức thu nhập ổn định. Một ngày làm việc của họ kéo dài hơn 10 tiếng, chỉ để hoàn thiện vài sản phẩm thủ công – thứ mà máy móc có thể làm nhanh gấp trăm lần.
“Có khi ngồi cả ngày chỉ đan xong một cái giỏ, bán được vài chục nghìn. Nhưng bỏ nghề thì tiếc, như bỏ mất một phần đời mình”, anh Nguyễn Văn Trung chia sẻ.
![]() |
Phụ nữ ĐBSCL với nghề đan lục bình. Ảnh: P.V |
Với nhiều nghệ nhân, làm nghề không chỉ là mưu sinh mà là giữ lấy bản sắc, dù điều đó đồng nghĩa với việc hy sinh thời gian, sức khỏe, và cả cơ hội làm việc khác có thu nhập tốt hơn.
Phụ nữ ở làng nghề đan lục bình ở Cờ Đỏ, Cần thơ kể rằng, khi mùa khô đến, nguyên liệu khan hiếm, hàng ế, họ vẫn bám trụ, vừa để có đồng ra đồng vào, vừa để duy trì công việc cho người trong xóm. Còn những người như anh Huỳnh Tử Vũ – phục chế hoa văn chùa – thì phải tự bỏ chi phí mua sơn, cọ, và nghiên cứu mẫu cổ, chỉ để giữ được tính nguyên bản của di sản.
Nếu công nhân xí nghiệp có lương tháng, kỹ sư có hợp đồng dài hạn, thì người làm mỹ nghệ sống bằng mùa vụ, bằng đơn hàng ít ỏi và bằng niềm tin rằng nghề sẽ không mất. Họ là những người đi ngược chiều gió, lặng lẽ giữ lại điều mà thời đại số đang dần bỏ quên: giá trị của lao động thủ công và tinh thần sáng tạo dân gian.
Tiếp sức để nghề không “tắt lửa”
ĐBSCL quy tụ hàng chục, hàng trăm làng nghề truyền thống, trải dài từ các tỉnh Tiền Giang cũ, Bến Tre cũ, Trà Vinh cũ... Những làng nghề này không chỉ là nơi mưu sinh của người dân mà còn là kho tàng văn hóa, nơi lưu giữ những kỹ thuật thủ công, tinh hoa mỹ thuật và giá trị truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Từ nghề gốm sứ, gạch ngói, dệt thổ cẩm, đan lát mây tre, chế tác gỗ, sơn mài, đến thư pháp, hội họa và điêu khắc – mỗi làng nghề là một câu chuyện riêng, góp phần làm nên bức tranh đa sắc về đời sống và tinh thần sáng tạo của vùng đất châu thổ.
Thực tế, nhiều làng nghề đang đứng trước nguy cơ mai một: thanh niên rời làng, thị trường hạn hẹp, cạnh tranh với hàng công nghiệp giá rẻ, thu nhập bấp bênh… Trong khi đó, một số ít làng nghề vẫn trụ lại, vừa sản xuất vừa đào tạo lớp kế thừa, âm thầm giữ “lửa” nghề, bảo tồn giá trị văn hóa mà thời gian khó có thể xóa nhòa.
![]() |
Đại hội Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam lần thứ III (nhiệm kỳ 2025 – 2030) diễn ra hồi tháng 4/2025. Ảnh: P.V |
Những năm qua, Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam (VATA) đã nỗ lực phối hợp với các địa phương nhằm quảng bá và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Thông qua các hoạt động, Hội đã giúp các nghệ nhân và doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và kết nối với thị trường trong và ngoài nước. Đến nay, Hội đã đề xuất và hỗ trợ các nghệ nhân đạt được danh hiệu "Nghệ nhân ưu tú" và "Nghệ nhân nhân dân", như 9 nghệ nhân của TP Cần Thơ được Hội đồng cấp Bộ thông qua vào năm 2018.
Hay như tại Đại hội Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam lần thứ III (nhiệm kỳ 2025 – 2030) diễn ra hồi tháng 4/2025, Hội đã trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Quốc gia cho 26 nghệ nhân; trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Bàn tay vàng cho 6 nghệ nhân; trao tặng danh hiệu Nghệ nhân Rạng danh Đất Việt cho 1 nghệ nhân; trao tặng danh hiệu Doanh nhân tiêu biểu cho 1 cá nhân; trao bằng công nhận Thương hiệu đẳng cấp uy tín cho các tập thể. Hội cũng đã trao tặng bằng khen cho nhiều cá nhân tiêu biểu. Việc này không chỉ ghi nhận công lao của nghệ nhân mà còn góp phần nâng cao giá trị nghề truyền thống.
Nói về điều này, ông Võ Vũ Bình – Phó Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam – nhận định rằng những người làm nghềtruyền thống đang “gánh trên vai” cả hai sứ mệnh: Gìn giữ văn hóa và thích ứng với thị trường.
“Người làm nghề truyền thống thường chọn con đường đầy nhọc nhằn. Họ không chỉ giữ gìn một nghề mà còn gìn giữ cả một phần ký ức văn hóa. Nhiều nghệ nhân phải chấp nhận thu nhập bấp bênh, mùa cao mùa thấp, có khi cả tháng chỉ đủ trang trải tiền nguyên liệu. Nhưng điều đáng quý là họ vẫn bám nghề, bởi với họ, nghề không chỉ là kế sinh nhai mà còn là danh dự, là hồn quê”.
![]() |
Ông Võ Vũ Bình – Phó Chủ tịch Hội Nghệ nhân và Thương hiệu Việt Nam (trái). Ảnh: P.V |
Ông Bình cho rằng, trong bối cảnh hội nhập và phát triển, nghề truyền thống đang phải đối mặt với “cơn sóng” công nghiệp hóa và thị trường hóa. “Nhiều người thợ trẻ bỏ nghề vì không thể cạnh tranh với hàng sản xuất công nghiệp giá rẻ. Một số làng nghề bị mai một vì thiếu người kế nghiệp. “Chính vì vậy, chúng tôi xem việc bảo tồn và phát triển nghề truyền thống không chỉ là gìn giữ văn hóa, mà còn là chiến lược phát triển kinh tế bền vững”, ông nói.
Theo các chuyên gia, để nghề truyền thống ở Đồng bằng sông Cửu Long không bị “tắt lửa”, cần có những chính sách hỗ trợ đồng bộ và dài hạn hơn. Trước hết là chính sách tín dụng ưu đãi, giúp các cơ sở làng nghề có vốn đầu tư máy móc, cải tiến mẫu mã, áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường, đồng thời bảo đảm điều kiện an toàn lao động cho người thợ. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ đào tạo nghề và truyền nghề cho lớp trẻ, đặc biệt là con em trong làng nghề, để tránh đứt gãy thế hệ kế thừa.
Song song với đó, các địa phương nên đẩy mạnh xúc tiến thương mại, liên kết thị trường và phát triển du lịch làng nghề, giúp sản phẩm thủ công không chỉ dừng ở phạm vi địa phương mà vươn tới khách hàng trong và ngoài nước. Việc xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, chuyển đổi số và bán hàng trực tuyến cũng cần được xem là hướng đi tất yếu để làng nghề thích ứng với thời đại.
Cuối cùng, các chuyên gia nhấn mạnh, giữ nghề truyền thống không chỉ là bảo tồn văn hóa mà còn là phát triển kinh tế bền vững. Mỗi sản phẩm thủ công được hồi sinh là thêm một sinh kế được tạo ra, thêm một mảnh hồn văn hóa được gìn giữ – để giữa guồng quay hiện đại, vẫn còn đó những bàn tay Việt thắp sáng ngọn lửa nghề từ tinh hoa văn hóa dân tộc...