Theo khảo sát của phóng viên Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập, cập nhật lúc 08:20:01 ngày 27/10/2025 trên trang giacaphe.com, giá cao su trong nước không biến động. Theo đó, Công ty Cao su Bà Rịa báo giá thu mua mủ nước ở mức 415 đồng/độ TSC/kg (áp dụng cho độ TSC từ 25 đến dưới 30); mủ đông DRC (35 - 44%) ở mức 15.000 đồng/kg; mủ nguyên liệu 20.000 đồng/kg.
Khép lại tuần qua, thị trường cao su thiên nhiên châu Á duy trì đà tăng nhẹ và ổn định. Tại Nhật Bản, giá cao su RSS3 trên sàn TOCOM biến động nhẹ tại kỳ hạn tháng 10/2025 tăng 4,5 yên/kg (+1,48%); tháng 11/2025 giữ nguyên ở 304,9 yên/kg. Trên sàn Thượng Hải (Trung Quốc), giá cao su tiếp tục tăng nhẹ tại hợp đồng tháng 11/2025 tăng 0,72%; tháng 1,3/2026 lần lượt tăng 0,82% và 1,18%.
![]() |
| Giá cao su hôm nay 27/10/2025: Giá cao su châu Á khép lại tuần tăng nhẹ |
Giá cao su trong nước hôm nay
Trong nước, giá cao su bình ổn. Cụ thể, Công ty Cao su Bà Rịa báo giá thu mua mủ nước ở mức 415 đồng/độ TSC/kg (áp dụng cho độ TSC từ 25 đến dưới 30); mủ đông DRC (35 - 44%) ở mức 15.000 đồng/kg; mủ nguyên liệu 20.000 đồng/kg.
Tại Công ty MangYang, công ty báo giá thu mua mủ nước ghi nhận bình ổn khoảng 398 – 403 đồng/TSC (loại 2-loại 1); mủ đông tạp khoảng 365 – 416 đồng/DRC (loại 2-loại 1).
Công ty Phú Riềng cũng chào giá thu mua mủ tạp bình ổn ở mức 390 đồng/DRC, giá thu mua mủ nước 420 đồng/TSC.
Tương tự, tại công ty Bình Long, giá cao su thu mua bình ổn tại Nhà máy ở mức 422 đồng/độ TSC/kg, giá thu mua tại đội sản xuất 412 đồng/TSC/kg; còn giá mủ tạp bình ổn (DRC 60%) 14.000 đồng/kg.
Giá cao su trên thị trường thế giới
Kết thúc tuần qua, thị trường cao su thiên nhiên châu Á duy trì xu hướng ổn định với nhịp tăng nhẹ.
Tại Nhật Bản, giá cao su RSS3 trên sàn TOCOM dao động nhẹ theo kỳ hạn giao hàng. Hợp đồng tháng 10/2025 tăng 4,5 yên/kg, tương đương +1,48%, lên 308 yên/kg; trong khi kỳ hạn tháng 11/2025 giữ nguyên ở mức 304,9 yên/kg. Hợp đồng giao tháng 1/2026 nhích 0,7 yên/kg (+0,23%) lên 308,9 yên/kg.
![]() |
| Cập nhật: 27/10/2025 lúc 08:45:02 |
Trên sàn Thượng Hải (Trung Quốc), giá cao su thiên nhiên duy trì đà tăng nhẹ so với phiên trước, được hỗ trợ bởi sức mua nội địa cải thiện và tín hiệu tích cực từ xuất khẩu. Hợp đồng tháng 11/2025 tăng 105 cent/kg (+0,72%) lên 145,95 cent/kg; tháng 1/2026 tăng 125 cent/kg (+0,82%) lên 153,50 cent/kg; và tháng 3/2026 tăng 180 cent/kg (+1,18%) lên 154,10 cent/kg.
![]() |
| Cập nhật: 27/10/2025 lúc 08:45:02 |
Tại Đức, nhà sản xuất elastomer polyester nhiệt dẻo (TPEE) của Trung Quốc – Hetron – vừa khởi công nhà máy thứ hai, đánh dấu bước mở rộng chiến lược tại châu Âu. Theo công bố tại triển lãm K2025, cơ sở mới dự kiến giúp nâng gấp đôi công suất sản xuất từ 20.000 tấn lên 50.000 tấn/năm vào năm 2027. Với trụ sở đặt tại tỉnh Giang Tô, Hetron hiện cung cấp vật liệu TPEE cho nhiều lĩnh vực như ô tô, dây và cáp điện, thiết bị y tế, đồ ngoài trời và nệm, hướng tới mục tiêu trở thành nhà cung ứng TPEE hàng đầu toàn cầu.
Ngược lại, Tập đoàn Michelin (Pháp) vừa công bố doanh thu 9 tháng đầu năm 2025 giảm 4,4% còn 19,27 tỷ euro, so với 20,17 tỷ euro cùng kỳ năm trước. Hãng cho biết môi trường kinh tế quý III xấu hơn dự kiến, khiến sản lượng tiêu thụ giảm 5,5% (tương đương 1,2 tỷ euro). Nhu cầu lốp nguyên bản (OE) giảm mạnh trên mọi phân khúc, chiếm gần 80% tổng mức sụt giảm.
Michelin nhận định, áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt, đặc biệt từ lốp nhập khẩu giá rẻ, khiến biên lợi nhuận thu hẹp dù giá bán vẫn duy trì tác động tích cực. Thị trường lốp OE tại châu Âu và Bắc Mỹ tiếp tục co hẹp, trong khi phân khúc lốp thay thế chỉ tăng nhẹ 1% – chủ yếu do lượng nhập khẩu tăng mạnh trước thời điểm áp thuế, dẫn đến tồn kho cao dù nhu cầu tiêu dùng cuối gần như không đổi.
Ở nhóm lốp xe tải, thị trường OE ngoài Trung Quốc giảm 4%, riêng Bắc Mỹ sụt tới 20%, còn châu Âu vẫn ở mức thấp. Mảng lốp thay thế tăng 4% nhờ nguồn cung từ nhập khẩu, nhưng nhu cầu thực tế yếu, phản ánh đà phục hồi kinh tế toàn cầu còn mong manh.
Theo giới phân tích, hai chuyển động trái chiều của Hetron và Michelin cho thấy bức tranh phân hóa rõ rệt của chuỗi cung ứng công nghiệp châu Âu: trong khi các nhà sản xuất vật liệu châu Á đẩy mạnh đầu tư để mở rộng ảnh hưởng, thì các tập đoàn phương Tây lại chịu sức ép từ nhu cầu giảm, cạnh tranh giá và chi phí sản xuất cao. Đây được xem là giai đoạn bản lề của ngành ô tô – vật liệu toàn cầu, nơi ưu thế đang dần nghiêng về các doanh nghiệp linh hoạt đến từ châu Á.