Ngành chè Việt Nam đã xác định mục tiêu phát triển ổn định và bền vững đến năm 2030. Theo kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích trồng chè cả nước sẽ được duy trì khoảng 120 - 125 nghìn ha, với sản lượng hàng năm đạt từ 1,4 đến 1,5 triệu tấn. Các khu vực trọng điểm bao gồm vùng Trung du miền núi phía Bắc với diện tích khoảng 98 - 100 nghìn ha, vùng Bắc Trung Bộ khoảng 10 - 12 nghìn ha, vùng Tây Nguyên khoảng 8 - 10 nghìn ha, cùng một số tỉnh khác như Quảng Ninh, Hà Nội, và Quảng Nam.
Việt Nam hiện là nhà sản xuất và xuất khẩu chè đứng thứ 5 thế giới, với sản phẩm đã có mặt tại hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong 9 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu chè đạt 108 nghìn tấn, mang về 189 triệu USD, tăng lần lượt gần 32% về lượng và hơn 34% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, diện tích chè năm 2023 đạt hơn 122.000 ha, giảm khoảng 12.000 ha so với năm 2015 do việc chuyển đổi đất chè già cỗi sang trồng cây ăn quả tại một số tỉnh miền núi phía Bắc.
Đặt mục tiêu lớn, ngành chè cần làm gì để bứt phá? |
Ông Hoàng Vĩnh Long, Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, chia sẻ rằng, nhờ điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thuận lợi, Việt Nam sở hữu nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao như Thái Nguyên, Sơn La, Lâm Đồng và đặc biệt là gần 20.000 ha chè Shan rừng. Nhiều cây chè Shan cổ thụ hàng trăm năm tuổi tại Suối Giàng - Yên Bái, Hà Giang, Tà Xùa - Sơn La đã cho ra sản phẩm chè có chất lượng cao, được quốc tế đánh giá không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào.
Dù chè Việt Nam có chất lượng cao, giá bán trên thị trường quốc tế lại chưa phản ánh đúng giá trị của sản phẩm. Hiện tại, giá chè xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng khoảng 65% so với các nước xuất khẩu hàng đầu và khoảng 55% so với Ấn Độ và Sri Lanka. Theo ông Hoàng Vĩnh Long, tình trạng "dễ mua, dễ bán" trong nhiều doanh nghiệp khiến người sản xuất không trau chuốt, đổi mới sản phẩm, đẩy ngành chè vào bẫy giá rẻ. Ngoài ra, việc sản xuất phân tán, đầu tư manh mún và cạnh tranh nội địa đã làm giảm giá trị chè Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Trước thực trạng này, các doanh nghiệp xuất khẩu đề xuất ngành chè không nên chạy theo mô hình sản xuất giá rẻ mà cần tập trung nâng cao chất lượng và cải thiện hiệu quả kinh tế. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã đưa chè vào danh sách 6 cây công nghiệp chủ lực, với mục tiêu đến năm 2030 đạt 70% diện tích trồng theo quy trình GAP và cấp mã số vùng trồng đạt trên 70%. Chiến lược phát triển bao gồm ổn định diện tích trồng, xây dựng bộ giống chất lượng cao phù hợp từng vùng sinh thái và áp dụng các kỹ thuật mới như trồng cây che bóng, tưới tiết kiệm, cơ giới hóa thu hoạch để nâng cao năng suất.
Sự liên kết trong sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu chất lượng và giải quyết các vấn đề về kỹ thuật, giống cây trồng sẽ là yếu tố then chốt giúp ngành chè Việt Nam nâng cao giá trị xuất khẩu, thoát khỏi bẫy giá rẻ và phát triển bền vững.