Dưới góc độ số liệu tài chính, doanh thu của Uber và Lyft đều đã trải qua 4 quý giảm liên tiếp so với cùng kỳ năm ngoái và rơi vào tình trạng lỗ liên tục.
Doanh thu giảm so với cùng kỳ năm trước trong bốn quý liên tiếp
Mặc dù Lyft và Uber đều là những “ông lớn” trong lĩnh vực đặt xe trực tuyến nhưng hai bên đều chưa thể lấp đầy khoảng trống giữa quy mô và nguồn doanh thu. Bên cạnh đó chiến lược của hai doanh nghiệp cũng khác nhau, trong khi Uber tập trung vào thị trường thế giới và triển khai nhiều ngành nghề kinh doanh thì Lyft đặt trọng tâm vào Hoa Kỳ với nguồn thu chủ yếu đến từ phí dịch vụ và hoa hồng từ lái xe.
Dưới tác động của đại dịch, người dùng của hai nền tảng liên tục giảm sút từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động doanh thu. Số lượng người dùng đang hoạt động sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng đơn đặt hàng trên nền tảng, do đó ảnh hưởng đến doanh thu của nền tảng. Báo cáo tài chính cho thấy trong quý đầu tiên của năm tài chính 2021, MAPC của Uber (người dùng hoạt động hàng tháng) là 98 triệu, giảm 5% so với 103 triệu cùng kỳ năm ngoái; tổng số chuyến đi là 1.447 tỷ trên một năm, giảm 13% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý đầu tiên của năm tài chính 2021, doanh thu đặt vé đi lại của Uber là 6,773 tỷ USD, giảm 37,7% so với mức 10,874 tỷ USD trước đó.
Về phía Lyft, do doanh thu dựa vào thu phí dịch vụ và hoa hồng từ tài xế nên số lượng khách đi xe và tài xế sẽ quyết định doanh thu của hãng. Báo cáo tài chính cho thấy trong quý đầu tiên của năm tài chính 2021, số hành khách tích cực của Lyft là 13,5 triệu, giảm 36% so với 21,2 triệu trong cùng kỳ năm ngoái.
Lỗ liên tục, kiểm soát chi phí chặt chẽ và tăng giá để giảm lỗ nhưng không bền vững
Báo cáo chỉ ra cũng trong quý đầu tiên của năm 2021, khoản lỗ ròng của Uber giảm xuống còn 108 triệu USD, ít hơn đáng kể so với mức lỗ 2,936 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, việc thu hẹp đáng kể khoản lỗ không phải do hiệu quả hoạt động được cải thiện nhờ khoản thu hồi 1,6 tỷ USD từ thương vụ bán mảng kinh doanh lái xe tự hành (ATG) cho công ty khởi nghiệp Aurora vào tháng 12 năm ngoái.
Đồng thời, Uber cũng đang kiểm soát chặt chẽ các khoản thu chi khác nhau của mình. Báo cáo tài chính cho thấy tổng chi phí và chi tiêu của Uber trong quý đầu tiên là 4,427 tỷ USD, giảm 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, chi phí doanh thu là 1,710 tỷ USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước; chi phí vận hành và hỗ trợ là 423 triệu USD, giảm 16% so với cùng kỳ năm trước; chi phí bán hàng và tiếp thị là 1,103 tỷ USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước; chi cho R&D là 515 triệu đô la Mỹ, tăng so với cùng kỳ năm ngoái.
Năm 2021, Lyft lỗ ròng 427,3 triệu USD, tăng từ mức lỗ ròng 398,1 triệu cùng kỳ năm ngoái và hẹp hơn so với mức 458,2 triệu quý trước. Khoản lỗ EBITDA điều chỉnh của quý I / 2021 là 73 triệu USD, giảm 12,2 triệu USD so với cùng kỳ năm trước và giảm 77 triệu USD so với mức lỗ của quý trước. Lyft cũng đang kiểm soát chặt chẽ các chi phí và khoản chi khác nhau, và tổng chi phí và chi tiêu đã được cắt giảm hàng năm trong 5 quý liên tiếp. Tổng chi phí và chi tiêu của Lyft là 1,025 tỷ , giảm 25% so với cùng kỳ năm ngoái, về cơ bản bằng với quý trước.
Về câu hỏi khi nào sẽ có lãi, hai công ty đã đưa ra các mục tiêu đặt ra khác nhau. Uber nhắc lại rằng họ sẽ đạt được mức lợi nhuận đã điều chỉnh vào cuối năm 2021. Lyft đã nâng mục tiêu lợi nhuận thêm 3 tháng, để đối phó với tình trạng thua lỗ và có kế hoạch bán mảng kinh doanh xe tự hành trong thời gian tới do Woven Planet Holdings, một công ty con của Toyota tiếp quản. Lyft cho biết việc thoái vốn khỏi mảng kinh doanh xe tự lái sẽ giúp họ tiết kiệm 100 triệu USD chi phí hoạt động, từ đó đạt được lợi nhuận nhanh hơn.
Didi có giống Uber không?
Uber sở hữu mô hình kinh doanh đa ngành nghề trong giai đoạn đầu niêm yết bao gồm dịch vụ gọi xe trực tuyến, vận chuyển hàng hóa và xe tự lái. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh toàn cầu cùng với tác động bất ngờ của đại dịch vào năm 2020 đã khiến Uber thua lỗ nghiêm trọng đã phải điều chỉnh chiến lược cũng như tư duy kinh doanh tập trung nhiều hơn vào các mảng kinh doanh gọi xe trực tuyến và giao đồ ăn.
Nhiều chuyên gia nhận định Didi có bóng dáng trước đây của Uber. Didi liên tục mở rộng phạm vi kinh doanh của mình để bao gồm các lĩnh vực kinh doanh mới như vận chuyển hàng hóa và vận tải công cộng, cố gắng đạt được sự đa dạng. Một số người trong cuộc cho biết kể từ năm ngoái, Didi mong muốn được niêm yết cũng như thường xuyên đăng tải tin tức về IPO với hy vọng thế giới bên ngoài sẽ thấy được tiềm năng kinh doanh đa ngành của ứng dụng đến từ Trung Quốc.
Trên thị trường sơ cấp, Didi có thể nói là “đứa con cưng” của nguồn vốn và tài chính công ty không hề bị ảnh hưởng dù thua lỗ trong thời gian dài. Theo báo cáo từ "BT Finance", tính đến cuối năm 2019, Didi đã lỗ lũy kế hơn 50 tỷ trong 7 năm nhưng nhận được 18 đợt tài trợ với số tiền lũy kế là 21 tỷ USD.
Kinh doanh đa ngành có nghĩa là cần vốn đầu tư liên tục. Trước hết, việc kinh doanh lữ hành và mua theo nhóm cộng đồng hiện nay phải đối mặt với áp lực cạnh tranh rất lớn. Hoạt động kinh doanh du lịch của Didi bao gồm xe tốc hành, xe buýt đặc biệt và dịch vụ gọi xe. Trong số đó, thị trường xe tốc hành có mặt bằng lớn nhất nhưng tỷ suất lợi nhuận lại nhỏ nhất còn kinh doanh xe cá nhân ở mức trung bình.
Không những vậy, hoạt động kinh doanh của Didi phải đối mặt với nhiều rủi ro về quy định. Trong một thời gian dài, mô hình “tiền tệ hóa dòng chảy + tài chính” có thể được coi là yếu tố chủ lực của “những gã khổng lồ”. Tuy nhiên, với việc thắt chặt, môi trường tài chính hiện nay không còn “lãi khủng” như trước, trong khi các rào cản gia nhập ngành tăng lên, giám sát tuân thủ kinh doanh cũng được tăng cường nhằm điều chỉnh giới hạn lãi suất trên. Dưới làn sóng chống độc quyền, Didi, với tư cách là “ông trùm” trong lĩnh vực du lịch nội địa cũng phải đối mặt với nguy cơ chống độc quyền.
Thị trường thứ cấp khác với thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp quan tâm nhiều hơn đến khả năng sinh lời của công ty. Do đó, lợi nhuận có sức thuyết phục hơn tiềm năng kinh doanh, ngay cả khi Didi niêm yết cổ phiếu thành công, công ty vẫn phải tính đến làm thế nào để ổn định giá trị thị trường và chứng minh công ty có thể hỗ trợ hoạt động đa ngành và có khả năng tạo ra lợi nhuận.
TL