Bóc trần chiêu trò "lách” sở hữu chéo. Bài I: Thực trạng doanh nghiệp là 'sân sau' của ngân hàng ở Việt Nam

16:25 22/01/2024

Sở hữu chéo giữa các doanh nghiệp và ngân hàng đã trở thành một vấn đề nổi cộm trong cả giới kinh doanh và chính trị. Đặc biệt, ở Việt Nam, mô hình này đã và đang tạo ra nhiều rủi ro và gian lận trong hoạt động kinh doanh.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Sở hữu chéo tiềm ẩn nhiều rủi ro

"Sở hữu chéo" là thuật ngữ chỉ mối quan hệ sở hữu giữa các doanh nghiệp và ngân hàng thông qua việc cùng sở hữu bằng cổ phiếu của nhau. Điều này tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa hai bên, nhưng đồng thời cũng mang theo nhiều rủi ro tiềm ẩn. Thực tế, mô hình sở hữu chéo có thể được sử dụng để che đậy hoạt động gian lận, trốn thuế và làm mất tính minh bạch trong quản lý tài chính.

Ở Việt Nam, thực trạng doanh nghiệp là 'sân sau' của ngân hàng đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Các công ty hoạt động trong các ngành kinh tế khác nhau thường sở hữu cổ phần của nhau thông qua các công ty trung gian. Điều này cho phép họ tránh sự giám sát nghiêm ngặt từ các cơ quan chức năng và tạo ra sự mờ ám trong quá trình quản lý tài chính.

Một ví dụ điển hình về thực trạng này là việc một số ngân hàng sử dụng các công ty con hoặc công ty liên kết để nắm giữ cổ phần của các doanh nghiệp khác. Điều này cho phép ngân hàng có ảnh hưởng và kiểm soát các quyết định quan trọng trong doanh nghiệp mà không cần trực tiếp sở hữu. Tuy nhiên, việc này không chỉ tạo ra một môi trường không minh bạch mà còn mở ra cánh cửa cho các hành vi tham nhũng và gian lận trong hoạt động tài chính.

Thực trạng doanh nghiệp là 'sân sau' của ngân hàng cũng gây ra rủi ro về tài chính và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Khi ngân hàng và doanh nghiệp quá chặt chẽ liên kết, các quyết định đầu tư và cho vay có thể bị chi phối bởi lợi ích cá nhân và không được đánh giá một cách khách quan. Điều này có thể dẫn đến việc cung cấp vốn không hiệu quả và tạo ra các "dự án thuyền trôi" không có giá trị thực tế, góp phần làm gia tăng rủi ro tài chính cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.

Ảnh minh họa
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cao cấp tại Học viện Tài chính.

Bình luận về vấn đề này, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cao cấp tại Học viện Tài chính khẳng định, lách luật sở hữu chéo, sở hữu cổ phần NHTM vượt mức quy định không chỉ mang lại rủi ro cho chính ngân hàng, doanh nghiệp mà có thể làm ảnh hưởng đến thị trường tài chính và cả nền kinh tế quốc dân.

Theo ông Thịnh, pháp luật không cấm cá nhân, doanh nghiệp sở hữu cổ phần ở một ngân hàng, một tổ chức tín dụng, nhưng chỉ được sở hữu ở một mức độ nhất định.

Vị chuyên gia này cho biết, trong thời gian qua, cơ quan chức năng cũng rốt ráo xử lý vấn đề sở hữu chéo, vi phạm sở hữu cổ phần của các tổ chức, cá nhân tại tổ chức tín dụng. Đến nay, tình trạng này cơ bản đã được kiểm soát. Tuy nhiên, vẫn còn mối lo ngại về vấn đề lách luật để sở hữu chéo, sở hữu cổ phần ngân hàng vượt mức quy định, hay nói cách khác là sở hữu ngầm vượt mức quy định của cổ đông, nhóm cổ đông ngân hàng.

“Điều đáng nói là đối với sở hữu ngầm thực sự rất khó quản lý cũng như khó có thể xử lý được nếu không có sự vào cuộc điều tra của các cơ quan chức năng. Hệ luỵ của nó gây ra đối với thị trường tài chính là rất nguy hiểm”, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nói.

Tại Việt Nam, việc sở hữu vượt mức quy định để rồi chi phối, thao túng hoạt động ngân hàng từng xảy ra trong quá khứ, có thể thấy rõ qua các đại án Trustbank - Hứa Thị Phấn, VNCB - Phạm Công Danh hay Oceanbank - Hà Văn Thắm và mới nhất là Vạn Thịnh Phát  - SCB…  Điều này, cho thấy những mối lo ngại về tình trạng lách luật để sở hữu chéo, sở hữu cổ phần ngân hàng vượt mức quy định, hay nói cách khác là sở hữu ngầm vượt mức quy định của cổ đông, nhóm cổ đông ngân hàng của giới chuyên gia là hoàn toàn có cở.

 Tránh chiêu trò "lách" sở hữu chéo

Để đảm bảo tính minh bạch và tránh chiêu trò "lách" sở hữu chéo, cần có sự can thiệp và quản lý chặt chẽ từ các cơ quan chức năng và tổ chức quản lý tài chính.  Thứ nhất, Tăng cường giám sát: Các cơ quan quản lý tài chính cần tăng cường giám sát và kiểm tra các hoạt động sở hữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Điều này bao gồm việc yêu cầu công bố thông tin liên quan đến sở hữu và quyền lợi liên quan của các bên liên quan, đồng thời áp dụng các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với vi phạm.

Ảnh minh họa

Thứ hai, doanh nghiệp và ngân hàng cần tăng cường minh bạch trong việc công bố thông tin về sở hữu cổ phần và quan hệ liên quan. Điều này giúp tạo ra sự rõ ràng và đồng thời tạo điều kiện cho các bên liên quan và công chúng để kiểm tra và đánh giá.

Thứ ba, các cơ quan quản lý tài chính cần nâng cao năng lực giám sát và kiểm tra, bằng cách đào tạo và phát triển cán bộ có chuyên môn cao và có kiến thức sâu về quản lý tài chính. Đồng thời, cần tạo ra các cơ chế liên ngành để chia sẻ thông tin và hợp tác giữa các cơ quan quản lý.

Thứ tư, cần đưa ra và thực thi các quy định pháp lý về sở hữu chéo, bao gồm việc xác định rõ ràng quyền và trách nhiệm của các bên liên quan. Đồng thời, cần áp dụng các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm.

Thứ năm, công chúng cần được giáo dục và nhận thức về tác động và rủi ro của sở hữu chéo. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc đào tạo, thông tin công khai và các hoạt động tuyên truyền.

Trên cơ sở những giải pháp trên, Việt Nam có thể tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng và lành mạnh, đồng thời giảm thiểu rủi ro liên quan đến sở hữu chéo. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và ngân hàng hoạt động một cách minh bạch và chính trực.

 Nghệ Nhân