Chợ nổi Cái Răng (TP.Cần Thơ). Ảnh: Nguyễn Hữu Thành
Khu vực ĐBSCL có diện tích khoảng 40.000 km², chiếm 12,8% diện tích và 18% dân số cả nước. Với thế mạnh phát triển nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa nước, cây ăn quả và nuôi trồng thủy, hải sản, khu vực này đóng góp hơn 50% sản lượng lúa và 12% GDP quốc gia. ĐBSCL có mạng lưới giao thông đường thủy, đường bộ chằng chịt; với sự đa dạng về dân tộc như: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm…
Mỗi dân tộc mang bản sắc văn hóa riêng nhưng đều có điểm chung là tính thân thiện, giản dị và mến khách. Ngoài ra, khu vực này còn là nơi giao thoa văn hóa với các nước tiếp giáp vùng sông Mekong, nổi bật với các danh lam thắng cảnh được gìn giữ, lưu truyền và phát triển từ thời cha ông ta khai hoang, mở cõi đến nay.
Mỗi địa phương trong khu vực ĐBSCL có thế mạnh, tiềm năng và đặc trưng riêng nhưng đều mang đậm nét văn hóa vùng sông nước. Với những giá trị văn hóa - lịch sử độc đáo và cảnh quan thiên nhiên phong phú, ĐBSCL đã hình thành các điểm đến hấp dẫn như: Làng gốm (Vĩnh Long); Vườn quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp); Văn hóa Óc Eo, Hội đua bò Bảy Núi (An Giang); Vườn cây trái Vĩnh Kim (Đồng Tháp); Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đồng Khởi (Vĩnh Long) ... Đây là tinh hoa văn hóa vật chất và tinh thần đặc trưng của người dân đồng bằng sông nước.
Bên cạnh đó, ĐBSCL với tổng chiều dài hơn 700 km và hơn 145 hòn đảo lớn, nhỏ cùng nhiều bãi tắm hoang sơ như: Hòn Khoai (Cà Mau); Phú Quốc, Mũi Nai, Hòn Chông (An Giang); Ba Động (Vĩnh Long)... Những đặc điểm này chính là động lực, đòn bẩy quan trọng thúc đẩy ngành công nghiệp không khói phát triển, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, nổi bật ở các tỉnh: An Giang, Đồng Tháp, TP. Cần Thơ và một số địa phương khác.
Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; ô nhiễm môi trường đã tác động tiêu cực, thậm chí rất nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương trong khu vực ĐBSCL, nhiều địa phương vẫn chưa khai thác hiệu quả lợi thế tiềm năng du lịch trong giai đoạn phục hồi hậu COVID-19. Du lịch bền vững trước biến đổi khí hậu, thiên tai đạt hiệu quả thấp, thậm chí chưa thích ứng một cách đầy đủ, toàn diện với yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế của khu vực ĐBSCL.
Số liệu thống kê cho thấy, tác động của biến đổi khí hậu đang ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là tình trạng sạt lở. Năm 2020, vùng ĐBSCL có trên 500 điểm sạt lở ven sông, biển; trong đó có 63 điểm sạt lở nghiêm trọng. Hằng năm, sạt lở làm mất khoảng 300 ha đất, rừng ngập mặn ven biển và buộc hơn 19.000 hộ dân phải di dời khỏi vùng nguy hiểm. Hiện nay, toàn vùng còn 561 điểm sạt lở bờ sông, bờ biển. Trong đó, sạt lở đặc biệt nguy hiểm có 63 điểm với chiều dài 204km cần được xử lý, tổng kinh phí khoảng 13.648 tỷ đồng.
ĐBSCL đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về vấn đề biến đổi khí hậu và môi trường. Ảnh minh hoạ, Nguồn: IT
Bên cạnh những khó khăn, thách thức do tác động biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh vùng ĐBSCL cũng đối mặt với nhiều hạn chế nội tại như: Cơ chế, chính sách thiếu đồng bộ, chậm đổi mới; nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được chú trọng; cơ sở hạ tầng kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu; liên doanh, liên kết trong phát triển du lịch thiếu gắn kết, còn manh mún, nhỏ lẻ; thương hiệu, sản phẩm dịch vụ du lịch chưa cuốn hút; xử lý vấn đề môi trường còn nhiều hạn chế.
Giải pháp để phát triển du lịch bền vững
Thực tiễn phát triển du lịch tại ĐBSCL cho thấy cần thiết phải đề ra và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để thúc đẩy du lịch bền vững phù hợp với điều kiện đặc thù của khu vực. Thứ nhất, cần đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội tạo điều kiện phát triển du lịch liên kết bền vững. Bao gồm xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, cải thiện hạ tầng điện, nước và viễn thông, xây dựng và nâng cấp cơ sở lưu trú, phát triển cơ sở văn hóa và giải trí và bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa của địa phương.
Thứ hai, thực hiện chặt chẽ công tác quy hoạch ngành, vùng gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên trong phát triển du lịch. Nhằm tạo tính hệ thống, có trọng tâm, trọng điểm theo thế mạnh, tiềm năng của từng địa phương, hạn chế manh mún, nhỏ lẻ gắn với bảo vệ môi trường tự nhiên.
Thứ ba, xây dựng các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ cao thích ứng biến đổi khí hậu của khu vực; tạo ra sản phẩm, công trình trí tuệ đối phó với những tác động tiêu cực của sự biến đổi khí hậu và sự tác động của con người thông qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đặc biệt là các giải pháp xử lý chất thải nông nghiệp, công nghiệp, bảo đảm môi trường du lịch “trong lành, sáng, xanh, sạch, đẹp”.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đa ngành, đa lĩnh vực trong quá trình đào tạo, để người lao động có kiến thức và kỹ năng đa dạng, thực hiện hợp tác và liên kết giữa các ngành và lĩnh vực khác nhau, từ đó tạo thành sức mạnh tổng hợp trong phát triển du lịch bền vững.
Thứ năm, tăng cường quảng bá hình ảnh quê hương, con người ĐBSCL. Kết nối và tổ chức hiệu quả các sự kiện, hoạt động xúc tiến du lịch liên vùng; xây dựng thương hiệu mạnh mẽ thông qua các phương tiện truyền thông, trang web, mạng xã hội và nền tảng kỹ thuật số. Song song đó, cần đa dạng hóa sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Cuối cùng, sự phối hợp với các tổ chức, quốc gia tiểu vùng sông Mekong là yếu tố then chốt để đối phó với biến đổi khí hậu và thúc đẩy du lịch bền vững. Các bên cần xây dựng chính sách chung, đánh giá tác động của biến đổi khí hậu, thiết lập tiêu chuẩn liên thông du lịch và chia sẻ thông tin, kinh nghiệm; hợp tác nghiên cứu công nghệ xanh, quản lý tài nguyên, tái tạo môi trường và triển khai các chương trình, dự án chung nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực.