Doanh nghiệp Việt ảnh hưởng gì khi Hiệp định RCEP cán đích

00:00 12/10/2020

Sáng 23/5, tại Hà Nội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Bộ Công Thương (MOIT) và Đoàn đàm phán của Chính phủ về RCEP tổ chức Hội thảo: Hiệp định RCEP - Tình hình đàm phán và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm. Hội thảo đã giúp doanh nghiệp cập nhật thông tin về tiến trình và xu hướng đàm phán RCEP, đồng thời tạo cơ hội để doanh nghiệp trao đổi với Đoàn đàm phán về các vấn đề, lĩnh vực cụ thể mà doanh nghiệp quan tâm hoặc có lợi ích.

 Hội thảo Hiệp định RCEP - Tình hình đàm phán và những vấn đề doanh nghiệp cần quan tâm

Tại hội thảo, Đoàn đàm phán RCEP của Chính phủ cũng đã trình bày về các khía cạnh cam kết quan trọng nhất của Hiệp định (thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, quy tắc…) Đoàn đàm phán và doanh nghiệp cũng đã tham vấn, trao đổi trực tiếp về các vấn đề liên quan nhằm giúp tiến trình đàm phán bám sát, phục vụ tối đa lợi ích của doanh nghiệp.

Phát biểu tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập - Phòng Thương mại và Công thương Việt Nam (VCCI) cho biết: Cách đây 6 năm, cũng vào tháng 5 năm 2013, ASEAN trong đó có Việt Nam cùng với 6 đối tác của ASEAN là Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc, New Zeland đã bước vào vòng đàm phán với RCEP. Kể từ năm 2013, 16 đối tác bắt đầu cuộc hành trình với mục tiêu thiết lập một siêu hiệp định thương mại tự do, kết nối khu vực kinh tế có thể xem là năng động nhất thế giới là Đông Nam Á, Nam Á, Đông Bắc Á và Châu Đại Dương. Khi được hoàn tất, RCEP sẽ tạo ra một kh vực mậu dịch tự do với một nửa dân số toàn cầu và với khoảng 28% tổng thương mại thế giới. Đàm phán RCEP có nền tảng cơ bản và vững chắc đó là 5 Hiệp định tự do thương mại đang có giữa ASEAN và từng nước đối tác là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc và New Zeland…

Trong suốt gần 1 thập kỷ qua, 5 Hiệp định tự do thương mại giữa ASEAN và 5 đới tác đã và đang mang lại lợi ích đáng kể cho nền kinh tế của các nước thành viên. Tuy nhiên, sự tồn tại riêng rẽ của 5 Hiệp định tự do thương mại cũng tạo ra cắt khúc trong chuỗi sản xuất cản trở các doanh nghiệp tận hưởng những lợi ích cộng hưởng từ các thương mại tự do này... Đó chính là lý do cơ bản bên cạnh nhều lý do khác để các nước cùng ngồi lại tiến hành đàm phán hy vọng tạo ra một siêu Hiệp định thương mại.

"Đứng từ góc độ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, chúng tôi hiểu rằng thành công của đàm phán sẽ giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại một bước so với 5 Hiệp định thương mại tự do đang có hiện nay hàng hóa những nội dung quan trọng của 5 hiệp định này qua đó tạo ra nền tảng chung ở mức độ cao hơn cho thương mại đầu tư trong khu vực cũng như là tạo ra sự thống nhất và chug cho hoạt động thương mại đầu tư trong khu vực này. Kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là DN sản xuất xuất khẩu của Việt Nam vào hiệu ứng kinh tế của RCEP là rất lớn. Doanh nghiệp Việt Nam có thể kỳ vọng Hiệp định RCEP sẽ giúp ưu đãi thuế quan được cải thiện hơn nữa, quy tắc xuất xứ nội khối được hài hòa, dễ đáp ứng hơn. Bên cạnh đó, các quy trình về hải quan sẽ được thống nhất, tạo thuận lợi thương mại hay phải xây dựng các quy tắc chung để hạn chế, kiểm soát các hàng rào phi thuế quan cũng như giảm chi phí dưới tác động của mở cửa thị trường dịch vụ phục vụ sản xuất", bà Nguyễn Thu Trang khẳng định.

Hiệp định RCEP hứa hẹn sẽ là sự bảo đảm cho tương lai tự do hóa cho khu vực trước xu hướng bảo hộ thương mại. Đây cũng là Lợi ích "dự trữ" cho doanh nghiệp trước nguy cơ bảo hộ ở các thị trường xuất khẩu lớn khác, căng thẳng thương mại Mỹ-Trung. Dù vậy, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn những quan ngại về Hiệp định như không đạt được kỳ vọng về thị trường xuất khẩu hay kỳ vọng về "vùng lánh nạn RCEP" có thể không thành hiện thực.

Theo ông Phạm Tuấn Anh, đại diện Bộ Tài chính – thành viên Đoàn đàm phán, những kỳ vọng về RCEP là rất lớn, bao gồm cơ hội xuất nhập khẩu, nhờ các ưu đãi thuế quan được cải thiện hơn, các quy tắc xuất xứ nội khối được hài hòa, dễ đáp ứng hơn; thống nhất các quy trình về hải quan, tạo thuận lợi thương mại; các quy tắc chung để hạn chế, kiểm soát các hàng rào phi thuế quan. 

Cũng theo ông Tuấn Anh, một số thị trường dịch vụ sẽ mở hơn, đặc biệt là dịch vụ logistics, viễn thông..., nền tảng thương mại điện tử. Doanh nghiệp cũng sẽ có lợi ích “dự trữ” tốt hơn trước nguy cơ bảo hộ ở các thị trường xuất khẩu lớn khác, hay tác động từ cuộc căng thẳng thương mại Mỹ – Trung. 

“Hiện Hiệp định này bước vào giai đoạn đàm phán cuối cùng, chúng tôi đang tiến hành đợt tham vấn cuối từ các doanh nghiệp”, ông Tuấn Anh nói.  

Còn theo bà Trịnh Thu Hiền, Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương, cơ hội về hiệp định này là rất lớn. Song bà Hiền cũng lưu ý các doanh nghiệp không nên chỉ tập trung theo những hiệp định thương mại mới. Ví dụ như với Hiệp định Tiến bộ và Toàn diện xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), để xuất khẩu sang Nhật Bản, Việt Nam với Nhật Bản đã có hiệp định song phương, nên nhiều mặt hàng đã có thuế về 0% nên doanh nghiệp cần tận dụng những hiệp định, các ưu đãi đó. 

Đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực giữa ASEAN; trong đó có Việt Nam và 6 đối tác: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand bắt đầu từ năm 2013 và hiện đang đi vào giai đoạn cuối. Khi hoàn tất, RCEP sẽ tạo ra một khu vực mậu dịch tự do rộng lớn, bao trùm nhiều đối tác xuất khẩu lớn của Việt Nam. 

Đặc biệt, với sự tham gia của các đối tác đang là nguồn cung nguyên liệu lớn cho Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc…, việc hài hòa quy tắc xuất xứ cùng các quy định tạo thuận lợi thương mại trong RCEP hứa hẹn sẽ tạo ra những chuỗi giá trị khu vực mới, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các ưu đãi thuế quan trong RCEP...

Thu Giang