Larry Fink - "vua của Phố Wall"

09:26 18/10/2021

Larry Fink đã xây dựng BlackRock trở thành quỹ quản lý tiền tệ lớn nhất hành tinh.

Larry Fink. Ảnh: New York Times.
Larry Fink. Ảnh: New York Times.

Larry Fink sinh tháng 11/1952. Ông lớn lên tại Van Nuys, khu vực gần với thung lũng San Fernando tại thành phố Los Angeles. Cha ông là chủ một cửa hiệu bán giày trong khi mẹ là giáo sư tiếng Anh tại Đại học Northridge, trực thuộc Đại học Bang California. Ông không có thành tích học tập tốt như anh trai, do đó, ông được cử tới giúp đỡ cha ở cửa tiệm. Đó chính là công việc mà anh trai tài giỏi hơn của ông được miễn trừ. 

Ông theo học ngành lý thuyết chính trị tại Đại học California. Bên cạnh một vài môn học kinh tế cơ bản, ông không theo học bất kỳ một khóa học kinh tế nào cho tới năm cuối đại học, khi ông đăng ký một vài lớp học về bất động sản dành cho sinh viên và nhanh chóng tìm thấy niềm đam mê ở đó. Nhưng giấc mơ trở thành một nhà phát triển bất động sản của ông đã phai tàn sau khi ông nhận bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Đại học Kinh tế, Đại học California. Cũng giống như nhiều người trẻ tài năng ở thời điểm đó, những người chưa thể định hình được họ muốn làm điều gì ngoài việc kiếm tiền, Fink lên đường đến Phố Wall với mái tóc để dài và chiếc chiếc vòng đeo tay màu ngọc bích mà Lori, người bạn phổ thông sau này là vợ ông, đã tặng. 

Ông nhận được vài lời mời phỏng vấn từ một số ngân hàng đầu tư lớn nhưng sự chán nản đã theo ông tới tận vòng phỏng vấn cuối cùng với Goldman Sachs.

"Tôi đã rất tuyệt vọng, nhưng kết quả lại khá bất ngờ", ông chia sẻ.

Nhưng thay vào đó, ông lại chọn First Boston, một công ty có tên tuổi khác, và bắt đầu làm việc từ năm 1976. Ông được giao công việc tại bộ phận giao dịch trái phiếu, và với những kiến thức về bất động sản mà đã học, ông phụ trách các trái phiếu có tài sản thế chấp. Ông chứng minh mình là một trong số ít những tài năng nổi bật và tới năm 1978, ông được bổ nhiệm làm trưởng bộ phận này. Tại đó, ông đã xây dựng nên một đội ngũ đồng nghiệp thân cận, chăm chỉ và trung thành. 

Nhiều thành viên trong nhóm của ông là người Do Thái. Nhiều người trong công ty đã ví von nhóm của ông là một “Israel thu nhỏ”. Trong những năm 1970 và 1980, những nhân viên gốc Italia và Do Thái vẫn là điều gì đó tương đối xa lại tại các công ty hoạt động trên Phố Wall, giống như First Boston. Ông nhớ cấp trên đã khuyên nên tuyển dụng một nhân viên có gốc Italia để làm việc tại quầy giao dịch khi những đồng nghiệp khác nghỉ lễ trong những dịp lễ hội của người Do Thái. 

Và người được chọn chính là Robert Kapito. Nhưng khi ngày lễ Rosh Hashaha tới, Kapito hoá ra cũng là người Do Thái giống như những đồng nghiệp. Dù xã hội còn mang nhiều tư tưởng bài ngoại, Fink lại cảm thấy rất hài lòng với những gì đang diễn ra tại First Boston. Thực tế là không ai quan tâm bạn là ai, miễn là bạn kiếm được tiền. Và Fink rất giỏi điều đó. 

Cho dù có tài năng vượt trội so với nhiều nhà giao dịch trái phiếu khác, kỷ nguyên của Fink lại gắn liền với không chỉ những thành công cá nhân của riêng ông mà còn là tính tự phụ khiến nhiều người cảm thấy khó chịu.

"Tôi là một kẻ ngốc", ông từng thừa nhận với tờ Crain's. Tuy nhiên, Phố Wall ưa chuộng sự thành công hơn là tính khiêm tốn. Fink trở thành vị quyền giám đốc điều hành trẻ tuổi nhất trong lịch sử First Boston. Ở tuổi 31, ông cũng là thành viên trẻ tuổi nhất trong hội đồng quản trị của công ty. Sự nghiệp của ông thăng tiến một cách tương đối thuận lợi.

"Nhóm của tôi và tôi giống như những ngôi sao nhạc rock vậy. Cấp lãnh đạo rất tin tưởng chúng tôi. Và tôi đang trên đường trở thành CEO chính thức của công ty. Thế nhưng, tôi đã phá hỏng tất cả. Điều đó thật tồi tệ", ông chia sẻ trong một bài phát biểu. Thế nhưng, điều đó không kéo dài mãi.

Vào năm 1986, nhóm của Fink gây ra khoản thiệt hại trị giá 100 triệu USD khi lãi suất đột nhiên sụt giảm và những biện pháp phòng hộ mà nhóm của ông áp dụng để bảo vệ họ trước hoàn cảnh tương tự hoàn toàn thất bại. Cho dù giúp công ty kiếm bộn tiền trong suốt một thập kỷ, nhưng ông từ vị thế của quyền CEO trở thành người bị ruồng bỏ. Cuối cùng, ông rời đi vào đầu năm 1988. 

Tuy nhiên, sự ruồng rẫy đó lại không khiến ông gục ngã. Một vài năm trước, Fink trở thành bạn qua điện thoại với Ralph Schlosstein, nhân viên của Shearson Lehman Hutton. Cả hai đều dậy rất sớm và thường xuyên gọi điện trao đổi về thị trường tài chính. Vào một buổi tối tháng 3/1987, họ đi cùng một chuyến bay từ Washington tới New York, do đó, họ đã dùng bữa tối cùng nhau. Và đó chính là điểm mấu chốt. 

Cả hai đều là thành viên đảng Dân chủ - Schlosstein là nhân viên Bộ Tài chính dưới thời tổng thống Jimmy Carter trước khi gia nhập Phố Wall - nhưng lại thường xuyên nói về sự không hài lòng với công việc và luôn sôi sục ý tưởng làm một điều gì đó mới mẻ. Họ bắt đầu lên kế hoạch xây dựng nên một công ty chứng khoán tài chính, tích hợp các cổ phiếu vào một danh mục đầu tư và phân tích tất cả những rủi ro mà chúng có thể mang lại. 

Vài ngày sau khi nghỉ việc tại First Boston, Fink mời một vài người bạn đến nhà để bàn bạc về những kế hoạch sắp tới. Trong đó có Kapito, trợ thủ đắc lực của ông, Barbara Novick, trưởng bộ phận quản lý các sản phẩm danh mục, Ben Golub, một thiên tài toán học, người thiết kế ra nhiều công cụ quản lý rủi ro, và Keith Anderson, một trong những chuyên viên phân tích trái phiếu hàng đầu tại First Boston.

Từ Shearson Lehman Hutton, Schlosstein mời Susan Wagner, và sau đó là Hugh Franter, hai chuyên gia trái phiếu thế chấp tài năng nhất của công ty. Cùng với nhau, họ thành lập nên một công ty đầu tư trái phiếu dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và khả năng quản lý rủi ro chuyên biệt. 

Điều họ cần chính là vốn, do đó, Fink tích cực tìm kiếm thông tin của các doanh nghiệp tiềm năng, những đơn vị có thể đầu tư vốn cho họ. Ông liên hệ với Steve Schwarzman và Pete Peterson, hai nhân sự cũ của Lehman Brothers đồng thời là nhà đồng sáng lập của BlackStone, những ngôi sao mới nổi trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán tư nhân. Blackstone đồng ý hỗ trợ công ty non trẻ của Fink thông qua việc chia sẻ văn phòng làm việc cùng với một khoản vay trị giá 5 triệu USD, đổi lại 50% cổ phần của công ty. Tận dụng vị thế đang lên của Blackstone, Fink và Schlosstein đã quyết định đặt tên công ty mới của họ là Blackstone Financial Management (BFM). 

Sau khi chính thức thành lập, họ tuyển dụng nhân viên đầu tiên: Charlie Hallac, một trong những đồng nghiệp cũ của Golub tại First Boston. Họ cũng nỗ lực tìm kiếm khách hàng nhằm hai mục tiêu thu hút thêm vốn và chào bán những dịch vụ công nghệ hỗ trợ mà Golub và Hallac đang phát triển. Đó là một công nghệ tân tiến có thể giúp khách hàng tránh khỏi những thất bại mà Fink đã từng gặp phải tại First Boston. Nền tảng này được lấy tên dựa trên khẩu hiệu "Tài sản, Độ tin cậy, Nợ và Mạng lưới đầu tư phái sinh", hay còn gọi là Aladdin. Phiên bản đầu tiên sản phẩm này được lập trình thông qua một máy trạm SUN có giá 20.000 USD được đặt giữa tủ lạnh và máy pha cà phê trong văn phòng làm việc. 

BFM có một khởi đầu tương đối mạnh mẽ, nhờ vào những mối quan hệ quý giá mà họ có. Chỉ trong vòng 6 năm đầu tiên, công ty đã quản lý khối tài sản trị giá 23 tỷ USD, và có khoảng 150 nhân viên. Thị trường trái phiếu đã gặt hái được nhiều thành công, và các quỹ hưu trí đã bị thu hút bởi tài năng của Fink và nhóm của ông. 

Công ty không hề có ý định "đoạn tuyệt" với Blackstone. Nhưng Fink đã cho tuyển dụng thêm nhiều nhân viên mới bằng cách trả họ cổ phiếu công ty - điều khiến cho tỷ lệ sở hữu của Blackstone ngày càng giảm xuống và khiến Schwarzman tức giận. Fink cuối cùng cũng quyết định rằng BFM và Blackstone sẽ đường ai nấy đi. 

Tất cả quỹ của BFM đều có một mật mã, chuyên dùng để xác định các công cụ đầu tư nhằm mục đích hoàn thiện hồ sơ pháp lý và cung cấp dữ liệu, đều bắt đầu bằng chữ B. Nhưng một thỏa thuận với Blackstone quy định rằng những mật mã mới không được chứa các từ "black" hoặc "stone". Bedrock đã được cân nhắc nhưng nó khiến cho nhiều người liên tưởng đến chương trình truyền hình The Flintstones. Tuy nhiên, các nhà sáng lập lại yêu thích cái tên "BlackRock”. Họ đã tham khảo ý kiến của Schwarzman và Peterson, chỉ ra rằng sự chia tay của Morgan Stanley với JPMorgan càng làm nổi bật tên tuổi của cả 2 công ty này hơn. Peterson và Schwarzman cho rằng ý tưởng BlackRock thể hiện sự tôn trọng với Blackstone, và qua đó, đã chấp thuận cái tên này.  

Larry Fink. Nguồn: Internet
Larry Fink. Nguồn: Internet.

Năm 1994, Blackstone đã bán cổ phần tại BlackRock với giá 240 triệu USD cho PNC Bank, có trụ sở tại Pittsburgh, bang Pennsylvania, công ty sau đó đã chuyển toàn bộ hoạt động quản lý quỹ sang cho BlackRock và cho công ty niêm yết trên sàn chứng khoán. Phiên IPO đã diễn ra vào ngày 1/10/1999. Tại thời điểm đó, giá trị tài sản mà BlackRock đang quản lý đã vượt qua con số 165 tỷ USD. 

Nhưng phiên IPO diễn ra không mấy thành công. Phiên chào bán được tổ chức bởi Merrill Lynch đã định giá BlackRock ở ngưỡng dưới 900 triệu USD, thấp hơn nhiều so với kỳ vọng. Fink đã có ý định huỷ bỏ phiên IPO này, nhưng CEO của Merrill Davis Komansky đã gọi cho ông.

“Anh đang làm cái quái gì vậy? Hãy thực hiện phiên IPO đi. Nếu như anh làm tốt công việc của mình, thì trong vòng 4 đến 5 năm tới, nó sẽ chỉ là một kỷ niệm xa vời mà thôi. Hãy tiếp tục phiên IPO ngay. Đừng cứng đầu nữa”, ông quát lên trong điện thoại.

Khi bong bóng dotcom vỡ, tình hình kinh doanh tập trung nhiều vào trái phiếu của BlackRock lại càng phát triển rực rỡ, thu hút các nhà đầu tư tìm kiếm sự ổn định. Điều đó có nghĩa công ty có thể dùng chính cổ phiếu của mình như một loại hình tiền tệ để mua lại các công ty đối thủ, phát triển thông qua mua bán thay vì phải đi gõ cửa từng khách hàng một và cho xây dựng các đội nhóm kinh doanh mới từ con số 0. Lịch sử của lĩnh vực đầu tư chứng kiến không ít thương vụ mua bán - sáp nhập thất bại, nhưng BlackRock đã dùng chính cổ phần của mình để chuyển đổi từ một công ty chỉ tập trung đầu tư vào trái phiếu thành công ty quản lý tài sản lớn nhất thế giới. 

Thương vụ đầu tiên diễn ra vào mùa hè năm 2004, khi BlackRock mua lại State Street Research, một quỹ quản lý tài sản sở hữu bởi công ty bảo hiểm MetLife, với giá 375 triệu USD. Nhưng thương vụ mang tính đột phá lại diễn ra một vài năm sau đó. 

Năm 2006, Fink biết được rằng CEO mới của Merrill Lynch là Stan O’Neal có ý định bán lại mảng kinh doanh quản lý tài sản của ngân hàng này. Ông sắp xếp một bữa sáng tại 3 Guys, một nhà hàng trong khu vực Upper East Side tại New York. Trong vòng 15 phút, hai người đã thảo luận về lời đề nghị, ký lên thực đơn của nhà hàng để làm tin về một thỏa thuận tạm thời. Cùng với nhau, BlackRock và Merrill Lynch Investment Managers (MLIM) sẽ trở thành một gã khổng lồ với giá trị tài sản mà họ đang quản lý chạm ngưỡng 1.000 tỷ USD. 

Đội ngũ nhân viên của MLIM có quan điểm trái chiều về thương vụ này. Nhiều người cảm thấy nhẹ nhõm khi trở thành thành viên của một công ty quản lý tài sản năng động và độc lập sau một thời gian dài bị Merrill lãng quên. Nhiều người khác lại cảm thấy không hài lòng về điều mà họ gọi là sự ngạo mạn của BlackRock. Schlosstein là người được chỉ định theo sát cuộc sáp nhập này nhưng chính Kapito lại là nhân vật khiến cho nhiều người có cái nhìn chưa đúng về công ty. Một vài nhân viên cũ của công ty so sánh ông với Mike “Wags” Wagner, một nhân vật nóng tính và trung thành trên chương trình truyền hình Billions. 

Nhuệ khí của Fink đã sớm được kiểm tra ngay sau thương vụ sáp nhập với MLIM. Ông ban đầu đã đánh giá thấp những hiểm nguy rình rập từ vấn đề nợ xấu bất động sản bắt đầu nhen nhóm từ đầu năm 2007. Ông chia sẻ với tờ Financial Times rằng thị trường đang phải "chịu rất nhiều áp lực” nhưng không cho rằng sẽ sụp đổ.

Một khoản đầu tư của BlackRock vào dự án Stuyvesant Town-Peter Cooper Village tại New York là một thất bại tủi hổ. Thế nhưng công ty đã làm tốt công tác dự báo về một cuộc khủng hoảng lớn sau đó, điều làm nhiều công ty đầu tư khác không làm được một phần nhờ vào đà tăng trưởng của mảng kinh doanh giải pháp, không dừng lại ở việc cung cấp Aladdin cho khách hàng ngoài. 

Công ty tham gia vào lĩnh vực phân tích các trái phiếu cơ cấu từ năm 1994, khi General Electric yêu cầu công ty đánh giá giá trị tài sản sổ sách của Kidder Peabody, một công ty môi giới chứng khoán lớn nhưng lại đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Tại thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính bùng nổ, bộ phận Giải pháp của công ty đã thực sự trưởng thành với chuyên môn cao trên thị trường.

Mọi người, từ những đối thủ trên Phố Wall cho tới những ngân hàng trung ương nước ngoài, thậm chí là chính phủ Mỹ đã phải tìm tới công ty để nhờ giúp đỡ phân tích những cổ phiếu "độc hại” đã khiến hệ thống chút nữa bị tê liệt.

“Khi chúng tôi làm việc với Kidder Peabody, chúng tôi giống như một chiếc máy chụp X-quang. Còn ở cuộc khủng hoảng kinh tế gần đây nhất, chúng tôi đã trở thành một chiếc máy chụp cộng hưởng từ".

Thương vụ mua lại BGI lại gây ra không ít hoài nghi. Tại San Francisco, nơi BGI đặt trụ sở, các nhân viên của công ty cho rằng BlackRock chỉ là một tập hợp của những giao dịch viên trái phiếu Phố Wall bình thường, những người đã xây dựng nên vị thế hiện tại thông qua việc mua bán và sáp nhập, không dựa trên những sáng chế, mối quan hệ và năng lực - phẩm chất vốn có của BGI. Việc đảm bảo thương vụ sáp nhập lớn nhất trong lịch sử ngành quản lý tài sản không chỉ là một sự kiện để người ta nhắc đến một lần là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. 

“Điều đó biến chúng tôi thành một công ty toàn cầu thực sự, nhưng cũng là quyết định không được phép sai lầm”, theo Mark Wiedman, người phụ trách quá trình sáp nhập. Ông phải cố gắng kết nối các chiến lược đầu tư chủ động truyền thống của BlackRock với các quỹ chỉ số thụ động của BGI. 

Tổng cộng, quá trình sáp nhập phải mất đến 3 năm vô cùng khó khăn để hoàn tất. Những người trong cuộc ước tính có hơn nửa nhân viên của BGI bị sa thải trong khoảng thời gian đó.

Tuy nhiên, thương vụ mua lại BGI vẫn là một câu chuyện thành công trong ngành quản lý tài sản, vốn chứng kiến số lượng những thương vụ thất bại thậm chí còn nhiều hơn số phân cảnh đâm xe trong loạt phim điện ảnh Fast & Furious. Sức ảnh hưởng của công ty phần lớn đến từ việc BlackRock đã cho đẩy mạnh sự phát triển của các quỹ chỉ số hiện hữu của BGI - các công cụ đầu tư bị động đơn giản theo dõi các chỉ số thị trường như FTSE 100 hoặc S&P 500.

BlackRock đã đóng góp cho lĩnh vực đầu tư như những gì mà Henry Ford đã làm cho ngành công nghiệp xe hơi. Công ty đã xây dựng một dây chuyền các sản phẩm tài chính, cho ra đời nhiều sản phẩm mà các nhà đầu tư có thể sử dụng một cách hiệu quả. 

Hiện tại, tỷ suất lợi nhuận của BlackRock thậm chí còn cao hơn cả Apple và Google. Giá trị trên sàn chứng khoán của công ty đang ở mức 126 tỷ USD, lớn hơn Goldman Sachs và tổng giá trị thị trường của các đối thủ TRowe Price, Franklin Templeton, Invesco, Janus Henderson, Schroders và State Street cộng lại. Tháng 6/2014, quỹ ETF iShares chính thức vượt qua con số 1.000 tỷ USD giá trị tài sản. 6 tháng đầu năm 2021, chỉ riêng iShare đã quản lý khối lượng tài sản trị giá hơn 3.000 tỷ USD. 

Thương vụ mua lại BGI đúng thời điểm là dấu hiệu cho thấy ông ấy hiểu được những thay đổi trong lĩnh vực đầu tư tốt hơn phần còn lại. Ông ấy là người cần sự khôn khéo đó hơn bao giờ hết khi mà BlackRock sẽ phải đối mặt với không ít thử thách trong vòng một thập kỷ tới, từ mối quan hệ căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc cho tới biến đổi khí hậu, bên cạnh đó là bức tranh xung đột chính trị xã hội tại Mỹ. 

Trong số 8 nhà sáng lập của công ty, chỉ còn Fink, Kapito và Golub vẫn còn ở lại và đảm nhận công tác quản lý điều hành. Nhiều người đặt ra câu hỏi điều gì sẽ xảy ra một khi Fink rời công ty mà ông đã xây dựng nên từ 30 năm về trước?

“Larry dường như biết tường tận về mọi thứ. Dù tôi không thích ông ấy lắm, nhưng ông ấy quả thực là một doanh nhân phi thường, và ông ấy hy sinh rất nhiều vì BlackRock”, theo một cựu lãnh đạo cấp cao của công ty. “Khi ông ấy rời đi, nó giống như khi Sir Alex Ferguson rời Manchester United vậy. Không hề nói quá khi nói hành trình của BlackRock là hành trình của duy nhất một người đàn ông”.

 Trúc Sam (tổng hợp)