Từ 1/1/2019, người tố cáo có thêm những quyền gì?

00:00 12/10/2020

Sáng 12.6, Quốc hội thông qua Luật Tố cáo (sửa đổi), có 469 đại biểu tham gia chiếm 96,30%, có 468 đại biểu tán thành thông qua Luật Tố cáo sửa đổi chiếm 96,10%, chỉ có 1 đại biểu khộng tán thành. Luật Tố cáo (sửa đổi) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2019.

Quốc hội đã thông qua Luật tố cáo (sửa đổi, ảnh VPQH).

Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu về dự thảo Luật Tố cáo, ông Nguyễn Khắc Định, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cho biết: Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 1 Điều 9 quyền của người tố cáo được bồi thường thiệt hại. Có ý kiến đề nghị bổ sung việc giải trình bằng lời nói tại điểm b khoản 2 Điều 10; trong trường hợp này, người giải quyết tố cáo phải lập thành biên bản. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu các ý kiến của đại biểu.

Vẫn theo ông Nguyễn Khắc Định, đa số ý kiến đề nghị giữ hình thức tố cáo như Luật hiện hành là tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp để bảo đảm tính khả thi. Một số ý kiến đề nghị mở rộng hình thức tố cáo qua thư điện tử, fax, điện thoại, tin nhắn điện thoại… Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội, giữ hình thức tố cáo như Luật hiện hành. Đối với những thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức nêu trên, nếu có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, bằng chứng cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật thì cơ quan tiếp nhận thông tin phải tiến hành việc kiểm tra, thanh tra, xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét giải quyết, xử lý để không bỏ sót, bỏ lọt các hành vi vi phạm pháp luật (Điều 25 của dự thảo Luật).

Về bảo vệ người tố cáo, có ý kiến đề nghị giữ đối tượng được bảo vệ như Luật hiện hành. Một số ý kiến đề nghị bổ sung đối tượng được bảo vệ là người cung cấp thông tin, người làm chứng, người nắm giữ các tài liệu quan trọng liên quan đến nội dung tố cáo, người trực tiếp xác minh và người giải quyết tố cáo... Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: Điều 47 của dự thảo Luật xác định đối tượng được bảo vệ theo hướng làm rõ phạm vi “người thân thích của người tố cáo” trong quy định của Luật hiện hành. Quy định này vừa kế thừa Luật hiện hành, vừa bảo đảm tính cụ thể, chặt chẽ của điều luật, đồng thời tập trung nguồn lực cho công tác bảo vệ, bảo đảm tính khả thi, đáp ứng yêu cầu giải quyết tố cáo. Đối với các đối tượng khác, pháp luật hiện hành vẫn có đủ cơ chế để bảo vệ khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về căn cứ để yêu cầu, quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, đây là các vấn đề rất cụ thể, đa dạng trong thực tiễn, do đó xin Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết để bảo đảm tính linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của công tác bảo vệ.

Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về bảo vệ người tố cáo tại nơi cư trú. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như sau: việc xác định nội dung bảo vệ tại Chương VI là căn cứ vào các quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ mà không phụ thuộc vào địa điểm cần bảo vệ. Do đó, xin được chỉnh lý khoản 3 Điều 47 của dự thảo Luật theo hướng không quy định về địa điểm bảo vệ.

Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo 1. Người bị tố cáo có các quyền sau đây:

a) Được thông báo về nội dung tố cáo, việc gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo;

b) Được giải trình, đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;

c) Được nhận kết luận nội dung tố cáo; d) Được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp khi chưa có kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo;

đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật, người giải quyết tố cáo trái pháp luật;

e) Được phục hồi danh dự, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra theo quy định của pháp luật; g) Khiếu nại quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

2. Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:

a) Có mặt để làm việc theo yêu cầu của người giải quyết tố cáo;

b) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;

c) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý theo kết luận nội dung tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền;

d) Bồi thường thiệt hại, bồi hoàn do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.

Ngọc Lương