Cơ hội và thách thức từ các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới

00:00 12/10/2020

Ngày 21/11, tại Hà Nội, diễn ra Hội thảo Khoa học “Triển vọng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021-2025: Cơ hội và thách thức từ các hiệp định tự do thương mại thế hệ mới” Hội thảo do Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF), Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Đại sứ quán Ireland tại Việt Nam tổ chức.

Các đại biểu chụp ảnh tại sự kiện.

Tham dự Hội thảo có Giám đốc NCIF TS. Trần Thị Hồng Minh, Phó Giám đốc NCIF Đặng Đức Anh, Phó Đại sứ Ireland tại Việt Nam Elisa Cavacece cùng đông đảo đại biểu quan tâm đến kinh tế Việt Nam.

Phát biểu tại hội thảo, TS. Trần Thị Hồng Minh, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Nghiên cứu của Trung tâm cho thấy, việc tham gia ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sẽ tác động sâu, rộng tới nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2021-2025.

Hai hiệp định CPTPP và EVFTA đều có lĩnh vực cam kết tương đối rộng so với các hiệp định thương mại tự do khác, không chỉ nằm trong lĩnh vực trao đổi, xuất nhập khẩu mà còn liên quan đến cách thức sản xuất ra hàng hóa để trao đổi. Cả hai hiệp định nhìn chung đều có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng, xuất khẩu, đặc biệt trong thị trường các nước nội khối.

TS. Trần Thị Hồng Minh, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

EVFTA dự báo sẽ có tác động lớn hơn CPTPP do CPTPP đã có nhiều thành viên tham gia các hiệp định FTA khác với Việt Nam trước đó. Hai hiệp định EVFTA và CPTPP có thể giúp GDP Việt Nam tăng thêm lần lượt 4,3% và 1,3% vào năm 2030. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đến năm 2030 dự kiến tăng thêm khoảng 44,4%; xuất khẩu sang các nước trong CPTPP đến năm 2035 sẽ tăng 14,3%.

"Ngoài ra, các hiệp định này cũng có tác động tích cực tới thị trường lao động; trong đó, những ngành sử dụng lao động như dệt may, da giày là những ngành dự báo sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Ngoài ra, tác động tích cực từ các hiệp định này còn có thể đến từ việc tạo sức ép cải thiện thể chế và môi trường kinh doanh. Do đó, kỳ vọng tạo ra những tác động tích cực trong trung và dài hạn", bà Minh cho hay.

Trên cơ sở đó, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia đã xây dựng 2 kịch bản dự báo tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025. Theo đó, với nhiều khả năng xảy ra hơn, tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2025. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát ở mức từ 3,5-4,5%/năm. Năng suất lao động được cải thiện hơn với tốc độ tăng trưởng khoảng 6,3%năm.

Một kịch bản khác, nếu Việt Nam có thể tận dụng được công nghệ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và thu hút đầu tư có sự cải thiện chất lượng, phát triển tốt nền tảng kinh tế hiện tại, có kỳ vọng GDP tăng trưởng 7,5%/năm.

TS. Đặng Đức Anh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia 

Nhận định về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 tại Hội thảo, TS. Đặng Đức Anh - Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia cho rằng, dù còn khó khăn, kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng.

Theo đó, tăng trưởng GDP phục hồi rõ nét sau giai đoạn 2011 - 2015, duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017-2019 (với tốc độ tăng tương ứng đạt 6,81 và 7,08% năm 2017, 2018 và khoảng 7,1% năm 2019). Đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế thế giới, thương mại toàn cầu và tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các khu vực, các nền kinh tế chậm lại. Tính chung giai đoạn 2016 - 2020, tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế khoảng 6,84%/năm (đạt mục tiêu 6,5 - 7% Kế hoạch 2016 - 2020 đã đề ra).

TS. Đặng Đức Anh cho rằng, không chỉ được hỗ trợ bởi sự gia tăng về quymô của các yếu tố sản xuất, tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020 còn được thúc đẩy bởi sự cải thiện của năng suất và hiệu quả. Năng suất lao động giai đoạn này tăng trung bình 5,8%/năm (so với mức tăng tương ứng 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015). Hiệu quả đầu tư cải thiện với hệ số ICOR trung bình 6,11 (so tương ứng với mức 6,25 của giai đoạn 2011 - 2015).

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng theo Phó Giám đốc NCIF, nhìn chung mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2020 vẫn chưa có sự thay đổi rõ nét. Tăng trưởng vẫn chủ yếu phụ thuộc vào vốn (tỷ lệ vốn đầu tư/GDP vẫn ở mức cao, trung bình 33,5%), đóng góp của nhân tố vốn trong tăng trưởng vẫn chiếm tỷ lệ lớn (trên 55%). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch quá nhanh sang khu vực dịch vụ trong khi nền tảng công nghiệp còn yếu. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, tính chất gia công còn lớn. Các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao đóng góp còn thấp, chi phí dịch vụ logistic còn cao.

TS.Trần Toàn Thắng, Trưởng ban, Ban Dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp thuộc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia

Bên cạnh đó, xuất khẩu vẫn phụ thuộc và nhóm hàng do doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhưng hàm lượng nội địa trong xuất khẩu không tăng tương ứng. Các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tham gia nhiều vào chuỗi giá trị toàn cầu. Năng lực đổi mới sáng tạo chưa được cải thiện nhiều và vẫn là điểm nghẽn trong phát triển kinh tế của Việt Nam khi CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.

“Giai đoạn 2021 - 2025, tăng trưởng kinh tế dự báo vẫn sẽ phụ thuộc vào ngành công nghiệp và dịch vụ, trong đó quan trọng là hai nhóm ngành công nghiệp chế biến và ngành bán buôn, bán lẻ. Sự chuyển đổi nhanh hơn của mô hình tăng trưởng theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả, với động lực chính là khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ giúp duy trì mức tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gia tới”- TS. Đặng Đức Anh nói.

Cũng tại sự kiện, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô, Trung tâm Dự báo kinh tế - xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) TS. Trần Toàn Thắng chia sẻ, việc tham gia ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, đặc biệt là Hiệp định CPTPP và Hiệp định EVFTA sẽ tác động sâu, rộng tới nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025.

Theo TS.Trần Toàn Thắng, Trưởng ban, Ban Dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp thuộc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội quốc gia, về tác động tới đầu tư, hai hiệp định này đều có cam kết cao hơn so với khuôn khổ WTO về mở cửa đầu tư, bảo hộ đầu tư, giải quyết tranh chấp.

Ảnh toàn cảnh

Về mặt định tính, EVFTA và CPTPP có thể giúp tăng khối lượng đầu tư nhằm tăng xuất khẩu vào thị trường của các đối tác Việt Nam; tăng đầu tư vào các ngành thượng nguồn nhằm khai thác cam kết về tỷ lệ xuất xứ, giúp cải thiện chuỗi cung ứng của Việt Nam…

Ông Trần Toàn Thắng cũng nhận định thêm, Việt Nam có thể nhanh chóng cải thiện năng lực cạnh tranh ở quy mô thị trường, lao động. Nhưng những chỉ số cốt lõi như hạ tầng, sáng tạo, mức độ sẵn sàng về công nghệ lại là những điều đáng lo ngại và cần có thời gian.

Cả CPTPP và EVFTA đều có lĩnh vực cam kết tương đối rộng so với các FTA khác, không chỉ nằm trong lĩnh vực trao đổi, xuất nhập khẩu mà còn liên quan đến cách thức sản xuất ra hàng hoá để trao đổi. Cả hai hiệp định nhìn chung đều có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng, xuất khẩu, đặc biệt trong thị trường các nước nội khối.

Ngoài ra, các hiệp định này cũng có tác động tích cực tới lao động, trong đó những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày là những ngành dự báo sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Ngoài ra, tác động tích cực từ các hiệp định này còn có thể đến từ việc tạo sức ép cải thiện thế chế và môi trường kinh doanh, do đó kỳ vọng tạo ra những tác động tích cực trong trung và dài hạn.

Ông Thắng khuyến nghị, 3 vấn đề cốt lõi cần quan tâm trong thời gian tới là: nâng cao năng lực nội tại của nền kinh tế; đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy gia tăng các động lực tăng trưởng mới; tận dụng hiệu quả các cơ hội từ hội nhập quốc tế, từ xu thế phát triển khoa học công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Do vậy, các ngành chức năng cần đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế và cải thiện môi trường đầu tư; thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của khu vực tư nhân. Đồng thời, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất lao động, tận dụng tối đa các lợi ích “bắt kịp” từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển công nghiệp chế biến chế tạo theo chiều sâu...

Thu Giang