Một số nguyên nhân chính gây ra tình trạng "tắc" dòng tiền bao gồm sự chậm trễ trong thanh toán từ phía khách hàng, tăng trưởng kinh tế chậm lại và áp lực tài chính từ các khoản vay trước đó. Khi doanh nghiệp không thể thu hồi đủ tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu tài chính ngắn hạn, họ sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ, tiền lương cho nhân viên và thậm chí duy trì hoạt động kinh doanh hàng ngày.
Hậu quả của tình trạng "tắc" dòng tiền là ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống tín dụng. Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác sẽ gặp khó khăn trong việc cung cấp tín dụng mới cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này có thể dẫn đến suy thoái kinh tế và mất cơ hội phát triển.
Để giải quyết vấn đề này, cần có sự hợp tác giữa doanh nghiệp, ngân hàng và chính phủ. Các doanh nghiệp cần tìm cách nâng cao quản lý tài chính, đảm bảo thanh toán đúng hẹn và tối ưu hóa quy trình thu hồi nợ. Ngân hàng cần đưa ra các giải pháp tài chính linh hoạt, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn tài chính ngắn hạn. Chính phủ có thể hỗ trợ thông qua chính sách tài khóa linh hoạt và các biện pháp kích thích nền kinh tế.
Ngoài ra, việc tăng cường quản lý rủi ro tín dụng và đánh giá tài chính của các doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng để ngăn chặn tình trạng "tắc" dòng tiền. Các doanh nghiệp cần có một quy trình kiểm soát nội bộ chặt chẽ và thực hiện các biện pháp đa dạng hóa nguồn tài chính.
Trong tình hình hiện nay, việc giải quyết vấn đề "tắc" dòng tiền đòi hỏi sự cùng nhau làm việc của tất cả các bên liên quan. Chỉ thông qua sự hợp tác và cùng nhau tìm ra các giải pháp sáng tạo, chúng ta có thể vượt qua khó khăn này và đảm bảo sự ổn định của hệ thống tín dụng và nền kinh tế.
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tính đến 27/3, dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế đạt hơn 13,651 triệu tỷ đồng, tăng 0,61% so với cuối năm 2023. Trong đó, tín dụng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp nông thôn (24,35%, tính đến cuối tháng 2), cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa (17,94%), cho vay doanh nghiệp xuất khẩu (2,25%).
Hiện dòng vốn trong ngân hàng rất dồi dào, ngân hàng luôn đảm bảo thanh khoản đầy đủ, thậm chí dư dả. Về phía cơ quan quản lý, Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ chính sách để đảm bảo tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn.
Theo ông Nguyễn Đình Tuệ, Giám đốc Trung tâm dịch vụ Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc tắc nghẽn dòng tiền như các nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Phát triển Công nghệ ngân hàng chỉ ra là khá xác đáng. Bởi hiện nay khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp là tiêu thụ sản phẩm hàng hóa khá chậm. Nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, giảm quy mô kinh doanh. Do vậy, nhu cầu vay vốn ngân hàng cũng giảm theo.
Ông Tuệ cho biết, trong hai tháng đầu năm 2024 tình hình xuất khẩu đang có dấu hiệu khởi sắc. Các ngành như ngành du lịch và một số ngành bán lẻ có tốc độ tăng trưởng khá. Tuy nhiên, khảo sát ở doanh nghiệp nhiều ngành hàng thì vẫn chưa có nhu cầu vay vốn, ngay cả khi lãi suất cho vay đã được các ngân hàng áp dụng ở mức thấp và niêm yết công khai.
Cùng quan điểm trên, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TP. Hồ Chí Minh cho rằng, các ngân hàng hiện nay cũng đang rất muốn cho doanh nghiệp vay nhưng doanh nghiệp lại chưa trả lời được câu hỏi “vay để làm gì”.
‘Vì thế trước mắt cần tiếp tục có sự vào cuộc của Chính phủ và nhiều bộ, ngành địa phương nhằm cải thiện sức cầu của nền kinh tế, tháo gỡ các vướng mắc về các thủ tục đầu tư, đặc biệt pháp lý liên quan đến đất đai. Từ đó, tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng các cơ hội làm ăn, kinh doanh. Khi đó mới tính đến nhu cầu vay vốn tín dụng”, ông Hòa nói.
Nghệ Nhân