Huyền thoại doanh nhân đất Việt Bạch Thái Bưởi - "Vua tàu thủy Việt Nam", "Chúa sông Bắc Kỳ"

20:13 11/04/2021

Vào cuối thế kỷ 20, khi nhắc đến những người giàu có nhất của đất Việt, người dân thường truyền miệng nhau câu nói "Nhất Sĩ, Nhì Phương, Tam Xương, Tứ Bưởi". Nhân vật thứ tư được nhắc đến trong câu nói này là Bạch Thái Bưởi.

Nguồn ảnh: Internet
Nguồn ảnh: Internet.

Doanh nhân Bạch Thái Bưởi, nguyên gốc họ Đỗ, quê ở làng An Phúc, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay là Yên Phúc, phương Phúc La, quận Hà Đông). Bạch Thái Bưởi sinh ngày 8/7/1875 - Ất Hợi, trong một gia đình nông dân nghèo nhưng có học. Cha mất sớm, ông ở với mẹ.

Xuất thân là một thư ký cho viên công sứ Pháp Bonnet, đến năm 20 tuổi, Bạch Thái Bưởi bắt đầu quan tâm đến việc kinh doanh. Nhờ tư chất thông minh, năm 21 tuổi, Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ cử ông sang Pháp dự hội chợ Bordeaux.

Trong những ngày ở Pháp, không như những người khác dành thời gian du hí đây đó, Bạch Thái Bưởi nỗ lực tìm hiểu, học hỏi cung cách buôn bán, cách tổ chức và quản lý sản xuất, nghệ thuật khuếch trương thương nghiệp... Ông đi đâu, đến chỗ nào, cũng hí hoáy ghi chép.

Trên chuyến tàu trở về nước, trong đầu Bạch Thái Bưởi đã định hình rõ con đường phía trước mà ông sẽ đi. Đó là con đường kinh doanh.

Và quyết định nghỉ việc tại hãng thầu công chánh được xem là điểm khởi đầu cho sự nghiệp của Bạch Thái Bưởi.

Nghe thì có vẻ đơn giản, nhưng với nhiều người, đây được xem là quyết định điên rồ của Bạch Thái Bưởi. Bởi ông đã từ bỏ một công việc với mức lương cao, một cuộc sống an nhàn "sáng vác ô đi, tối vác ô về" để dấn thân vào một con đường đầy bất trắc.

Bạch Thái Bưởi cũng phải vượt qua quan niệm cũ kỹ coi rẻ nghề buôn đã ăn sâu vào nhiều thế hệ khi đó với tư duy: "Nhất nông, vi bản", "Trọng nông, ức thương" hay "Sĩ, nông, công, thương"…

Khi mà việc làm ăn với người Pháp chẳng bao giờ nằm trong suy nghĩ của những nhà buôn đất Hà Thành, Bạch Thái Bưởi đã cho thấy con mắt nhìn xa trông rộng của mình.

Ông nhìn ra cơ hội kiếm tiền bằng cách trở thành đối tác chính cung cấp tà vẹt cho dự án xây dựng đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ là đường sắt xuyên Việt Bắc – Trung – Nam và chiếc cầu bắc qua sông Cái (sông Hồng) là cầu Doumer (cầu Long Biên ngày nay).

Bạch Thái Bưởi đã dồn tất cả vốn liếng, trong suốt 3 năm, ông lặn lội khắp núi rừng tìm gỗ tốt làm tà-vẹt bán cho Sở Hỏa xa Đông Dương. Năm 1902, cầu Doumer được khánh thành, thiên hạ khắp nơi đổ về xem cầu như đi trẩy hội. Khi ấy, Bạch Thái Bưởi đã trở nên rất giàu có.

Nắm trong tay một số tiền lớn, nhưng Bạch Thái Bưởi không để đồng tiền ngủ yên. Với ông tiền phải đẻ ra tiền.

Một ý tưởng táo bạo đang được nung nấu trong đầu Bạch Thái Bưởi!

Không để đồng tiền trong túi mình ngủ yên, khoảng năm 1908 - 1909, Bạch Thái Bưởi đã quyết định chuyển hướng sang kinh doanh vận tải đường thủy, nơi mà những thương nhân Hoa Kiều gần như đang độc quyền chiếm lĩnh.

Và quyết định này là khởi nguồn cho danh hiệu "Vua tàu thủy Việt Nam" và "Chúa sông Bắc Kỳ" của Bạch Thái Bưởi sau này.

Nguồn ảnh: Internet
Nguồn ảnh: Internet.

Ông lập công ty Hàng hải Bạch Thái Bưởi, thuê lại 3 chiếc Phenix, Dragron và Fai Tsi Long. Ông đổi tên chúng thành: Phi Phụng, Phi Long và Khoái Tử Long để kinh doanh vận tải đường thủy trên hai tuyến Nam Định – Bến Thủy (Nghệ An) và Nam Định – Hà Nội.

Dù vấp phải sự cạnh tranh không khoan nhượng đến từ các đối thủ là các công ty người Pháp và người Hoa, nhưng với ý chí quật cường, sự tài trí kết hợp khôn khéo, khách đi tàu của Bạch Thái Bưởi mỗi ngày một đông hơn. Đội tàu của ông ngày càng mạnh, các tuyến đường khai thác ngày càng vươn tới nhiều miền đất mới.

Không dừng lại, Bạch Thái Bưởi còn mua hẳn một xưởng sửa chữa để phục vụ cho việc đóng mới và sửa đội tàu của mình.

Từ chỗ chỉ có 3 chiếc tàu đi thuê, khai thác trên 2 tuyến, đến năm 1919, Bạch Thái Bưởi đã có cho mình 25 chiếc tàu cỡ lớn nhỏ. Tàu lớn nhất, dài nhất tới 40,25m; tàu ngắn nhất 18,28m. Đủ các chủng loại: Tàu sắt, tàu kẽm, tàu phụ, xà lan… Đội tàu của ông khai thác trên 17 chuyến đường thủy, chạy khắp các sông Đào, sống Cái, ở Bắc Hà từ phía Bắc đến Tuyên Quang, phía Nam tới Bên Thủy, Vinh. Đông từ Móng Cái đến tây là chợ Bờ (Bắc Cạn cũ). Thậm chí những con tầu của ông đã vươn ra các tuyến đường duyên hải, đến cả một số bến cảng của Hong Kong, Singapore…

Ước tính trung bình mỗi năm, công ty của Bạch Thái Bưởi chuyên chở tới 5.000 chuyến, trên dưới 1,5 triệu hành khách, hơn 15 vạn tấn hàng.

Con tàu Bình Chuẩn là đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh vận tải đường thủy của Bạch Thái Bưởi. Đây là còn tàu dài 42m, trọng tải 600 tấn, động cơ 400 mã lực hoàn toàn do người Việt thiết kế và thi công.

Được hạ thủy vào 7/9/1919 tại Cửa Cấm (Hải Phòng), Bình Chuẩn nhổ neo vào ngày 20/8/1920 và cập cảng Sài Gòn vào 17/9/1920.

Sự kiện này đã làm nức lòng giới kinh doanh Nam Kỳ, họ cho đúc bảng đồng tặng tàu Bình Chuẩn với dòng chữ chói lọi: "Tặng tàu Bình Chuẩn, chiếc tàu Việt Nam đầu tiên tại Cảng Sài Gòn".

Những điều này đã khiến những danh hiệu đầy tự hào "Vua tàu thủy Việt Nam", "Chúa sông Bắc Kỳ" gắn liền với tên tuổi Bạch Thái Bưởi trong suốt cả cuộc đời ông, cũng như cho đến ngày hôm nay.

Không chỉ đường thủy, Bạch Thái Bưởi giống "như vua Midas" vậy, khi mà kinh doanh ở đâu, ông cũng thắng lớn ở đó, từ mở hàng ăn, lập nhà in, hay khai thác mỏ…

Mặc dù sống giữa thời kỳ bị thực dân Pháp chèn ép nhưng doanh nhân Bạch Thái Bưởi, với tinh thần dân tộc làm nên sự thành công vang dội cho giới thương nhân Việt Nam trên thương trường. Ông mất năm Mậu Thân (1932), mộ táng tại vùng mỏ Đông Triều, nơi ông đã từng khai thác mỏ than. Khi ông mất, học giả ứng Hoè Nguyễn Văn Tố viết trên tạp chí Đông Thanh, gọi ông là: "Bậc anh hùng kinh tế thứ nhất trong kinh tế giới nước nhà".

Bạch Thái Bưởi là một doanh nhân có tấm lòng nồng nhiệt đối với các hoạt động văn hoá xã hội. Ông là một trong những sáng lập viên và là một trị sự đắc lực của Hội Khai Trí Tiến Đức, và nhiều năm được cử làm Phó Hội trưởng. Nhiều nhân sĩ Bắc Hà danh tiếng đương thời đều là chỗ bạn bè với Bạch Thái Bưởi như: Giá Sơn Kiều Oánh Mậu, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... mà trong văn thơ của họ vẫn vang lên dư âm và hình bóng của những cuộc luận đàm, xướng hoạ.

TH