2,4 tỷ phụ nữ trên toàn cầu mất cơ hội kinh tế bình đẳng

23:55 07/03/2022

Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới về Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật năm 2022, khoảng 2,4 tỷ phụ nữ trong độ tuổi lao động không có cơ hội kinh tế bình đẳng và 178 quốc gia đang duy trì các rào cản pháp lý ngăn cản sự tham gia đầy đủ của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa.

Bà Mari Pangestu, Tổng Giám Đốc điều hành Chính sách phát triển và Quan hệ đối tác của Ngân hàng Thế giới cho biết: “Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ, khoảng cách giữa thu nhập cả đời dự kiến của nam giới và phụ nữ trên toàn cầu là 172 nghìn tỷ USD – gần gấp hai lần GDP hàng năm của thế giới. Khi chúng ta hướng tới mục tiêu phát triển xanh, thích ứng và bao trùm, các chính phủ cần đẩy nhanh tốc độ cải cách pháp lý để phụ nữ có thể phát huy hết tiềm năng của mình và được hưởng lợi một cách đầy đủ và bình đẳng.”

Báo cáo Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật năm 2022 đo lường mức độ ảnh hưởng của luật và các quy định tại 190 quốc gia trong 8 lĩnh vực liên quan đến cơ hội kinh tế của phụ nữ – bao gồm khả năng tự do đi lại, môi trường làm việc, lương, kết hôn, thai sản, khởi nghiệp, tài sản, và chế độ hưu trí. Bộ dữ liệu giúp xây dựng các tiêu chuẩn khách quan và có thể dùng để đo lường sự tiến bộ toàn cầu về bình đẳng giới. Chỉ có 12 quốc gia, tất cả đều là thành viên của OECD, đạt được bình đẳng giới về mặt pháp lý. Điểm mới trong năm nay là cuộc khảo sát thí điểm tại 95 quốc gia về quy định pháp lý trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em – một lĩnh vực quan trọng cần được hỗ trợ để phụ nữ đạt được thành công trong những công việc được trả lương. Một phân tích thí điểm về tác động của việc thực thi các quy định pháp luật liên quan đến trao quyền kinh tế cho phụ nữ cho thấy có sự khác biệt giữa các quy định trên giấy tờ và thực tế mà phụ nữ phải trải qua.

Các khu vực Trung Đông, Bắc Phi và Châu Phi cận Sahara ghi nhận nhiều cải thiện nhất về Chỉ số Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật (WBL) trong năm 2021, mặc dù về tổng thể các khu vực này vẫn tiếp tục tụt hậu so với các nơi khác trên thế giới. Cộng hòa Gabon nổi bật với những cải cách toàn diện trong bộ luật dân sự và ban hành luật xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ. Điểm số của Cộng hòa Gabon đã tăng từ 57,5 điểm ​​vào năm 2020 lên 82,5 điểm vào năm 2021.

Trên toàn cầu, số lượng cải cách được thực hiện nhiều nhất đối với các chỉ số về Thai sản, Lương và Môi trường làm việc. Nhiều cải cách tập trung vào bảo vệ chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc, cấm phân biệt đối xử về giới, tăng thời gian nghỉ có lương cho các cha mẹ mới sinh con và dỡ bỏ các hạn chế việc làm đối với phụ nữ. Các chỉ số về Lương và Thai sản có điểm trung bình thấp nhất trong chỉ số WBL, nhưng đã tăng lần lượt 0,9 điểm và 0,7 điểm trong năm ngoái lên đến điểm trung bình là 68,7 điểm và 55,6 điểm. Mức tăng trong chỉ số Thai sản chủ yếu xoay quanh chế độ cho phép người cha nghỉ sinh con và cho phép cả bố và mẹ nghỉ sinh con, nhưng điểm số thấp cho thấy sự cần thiết phải đẩy nhanh cải cách trong lĩnh vực này.

Báo cáo Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật năm 2022 đưa ra một nghiên cứu thí điểm trong 2 lĩnh vực mới, đó là môi trường pháp lý cho các dịch vụ chăm sóc trẻ em và thực thi pháp luật. Ngày càng có nhiều nền kinh tế đầu tư vào chăm sóc trẻ em để nâng cao kỹ năng của trẻ và công nhận công việc chăm sóc không được trả công của phụ nữ, những người thường đảm nhận nhiều nhiệm vụ chăm sóc hơn. Nghiên cứu thí điểm đã phân tích luật pháp ở 95 nền kinh tế và nhận thấy hầu hết các nền kinh tế có thu nhập cao trong OECD và các nền kinh tế châu Âu và Trung Á có quy định về các dịch vụ chăm sóc trẻ em của nhà nước trong khi ở Trung Đông và Bắc Phi và Nam Á, các quy định bắt buộc khu vực tư nhân hoặc người sử dụng lao động cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em cho cha mẹ đang đi làm.

Để dịch vụ chăm sóc trẻ em có chi phí hợp lý và được sử dụng rộng rãi hơn, một số quốc gia hỗ trợ tài chính cho cha mẹ hoặc người cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em. Nghiên cứu cũng xem xét các khía cạnh chất lượng trong quy định như tỷ lệ giáo viên trên trẻ em, quy mô nhóm tối đa, yêu cầu đào tạo đối với giáo viên, cũng như các yêu cầu về cấp phép, thanh tra và báo cáo đối với các nhà cung cấp dịch vụ. Cần có thêm bằng chứng về những yếu tố tác động đến chất lượng và các khía cạnh của chất lượng mà phụ huynh quan tâm trước khi quyết định gửi con.

Báo cáo này cũng đánh giá các chỉ số Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật trên thực tế ở 25 nền kinh tế. Phân tích về thực thi pháp luật cho thấy còn khoảng cách lớn giữa các quy định pháp luật trên giấy và hiệu lực thực thi pháp luật. Chỉ riêng luật pháp là chưa đủ để cải thiện bình đẳng giới; các yếu tố tác động không chỉ bao gồm việc thực hiện và thực thi pháp luật mà còn cả các chuẩn mực xã hội, văn hóa và tôn giáo. Những khoảng trống này sẽ được tìm hiểu thêm trong các trong các ấn phẩm tương lai của báo cáo Phụ nữ, Doanh nghiệp và Pháp luật.

Theo Báo cáo Tổng quan về bình đẳng giới ở Việt Nam năm 2021, đại dịch Covid-19 đã tác động nặng nề hơn tới phụ nữ ở Việt Nam, làm trầm trọng thêm khoảng cách về giới vốn đã tồn tại dai dẳng trên thị trường lao động như: tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ giảm sâu hơn so với nam giới, khiến chênh lệch theo giới tăng nhẹ lên 10,8. Nhiều bà mẹ có con nhỏ không còn lựa chọn nào khác là phải hy sinh sự nghiệp hay rời khỏi thị trường lao động để chăm con khi trường học đóng cửa. Chính vì thế, việc doanh nghiệp tham gia thúc đẩy bình đẳng giới là vô cùng quan trọng.

Hiểu Minh