Vụ trưởng Vụ Chính sách Đa biên nói về ý nghĩa Hiệp định RECP với doanh nghiệp và nền kinh tế VN

21:49 21/11/2020

Trong bối cảnh của đại dịch Covid-19 bùng phát làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, việc ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và mang lại các lợi ích cả trong ngắn hạn cũng như dài hạn.

Trong buổi sinh hoạt báo chí chuyên đề: Hiệp định RCEP: cơ hội và thách thức, PV Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập đã có cuộc phỏng vấn ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách Đa biên của Bộ Công Thương về tầm quan trọng của Hiệp định RCEP với doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách Đa biên - Bộ Công Thương trong buổi sinh hoạt báo chí chuyên đề ngày 19/11/2020.

PV: Thưa ông, Hiệp định RCEP được ký ngày 15/11 vừa qua với sự tham gia của 15 nước thành viên. Vậy giới doanh nghiệp Việt Nam quan tâm nhất trong RCEP là gì?

Ông Lương Hoàng Thái: Cũng như với các Hiệp định FTA khác, để khai thác triệt để lợi ích do Hiệp định RCEP mang lại, việc đầu tiên doanh nghiệp Việt Nam cần làm là nghiên cứu kỹ cam kết của Hiệp định, nhất là các cam kết liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình, chẳng hạn như lộ trình cắt giảm và xóa bỏ thuế quan đối với hàng hóa của Việt Nam và của các nước tham gia Hiệp định, quy tắc xuất xứ của Hiệp định, cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các quy định về thủ tục hải quan và thuận lợi hóa thương mại v.v…

Ngoài các lợi ích, doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động nắm bắt và chuẩn bị trước về các tác động bất lợi mà Hiệp định RCEP gây ra, nhất là việc gia tăng cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa.

PV: Thưa ông, Việt Nam luôn là nước nhập siêu lớn từ Trung Quốc. Liệu RCEP có thêm Trung Quốc, mức độ phụ thuộc vào Trung Quốc có gia tăng? 

 

Quang cảnh cuộc họp báo chí chuyên đề do ông Lương Hoàng Thái chủ trì

Ông Lương Hoàng Thái: Việt Nam đã tham gia cùng các nước ASEAN để mở cửa thị trường với Trung Quốc thông qua Hiệp định thương mại tự do ASEAN -Trung Quốc (ACFTA) vào năm 2010. Với tỉ lệ tự do hóa thuế quan mà Việt Nam cam kết với Trung Quốc theo Hiệp định RCEP không cao hơn so với Hiệp định ACFTA, việc thực thi Hiệp định RCEP về cơ bản sẽ không tạo ra áp lực cạnh tranh mới và gia tăng cam kết mở cửa thị trường với Việt Nam.

Ngoài ra, với lợi thế về việc hài hòa quy tắc xuất xứ trong Hiệp định RCEP, Việt Nam sẽ có cơ hội sử dụng nguyên liệu đầu vào tối ưu hơn để sản xuất hàng hóa xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên RCEP bao gồm Trung Quốc với sức cạnh tranh cao hơn khi chỉ khai thác Hiệp định ACFTA , do đó có cơ hội thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này.

Như vậy, Hiệp định RCEP về cơ bản có thể coi là việc các nước ASEAN “đa phương hóa” quan hệ thương mại song phương trước đây đã có với Trung Quốc dựa trên các quy định của WTO có được các nước cập nhật cho phù hợp với tình hình mới. Do vậy, không thể nói Hiệp định RCEP là ASEAN phụ thuộc hơn vào bất cứ thị trường nào, có phụ thuộc ở đây thì là phụ thuộc vào các quy định mang tính đa phương, minh bạch và đã được quốc tế công nhận trong nhiều năm qua.

PV: Khi RCEP có hiệu lực, sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho Việt Nam trên những khía cạnh nào, thưa ông?

Ông Lương Hoàng Thái: Thứ nhất, Hiệp định RCEP, khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỉ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP 26,2 nghìn tỉ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới. Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ, Hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực mà doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia.

Thứ hai, trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP sẽ tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của ta.

Thứ ba, việc thực hiện Hiệp định RCEP sẽ tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lýtrong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần tạo nên môi trường thương mại công bằng trong khu vực. Khi đó, Việt Nam có cơ hội trở thành một điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế về lâu dài.

Cuối cùng, việc kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định RCEP sẽ góp phần nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

PV: Xin ông cho biết RCEP có ý nghĩa như thế nào đối với quá trình khôi phục kinh tế hậu Covid-19 tại Việt Nam hiện nay?

Ông Lương Hoàng Thái: Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, việc thiết lập Hiệp định RCEP sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi các chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực đang chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực bởi đại dịch Covid-19. 

Hiệp định RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu của ta. Việc tìm kiếm và xây dựng thị trưởng ổn định cho các sản phầm xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt với các sản phẩm mà ta có thế mạnh có ý nghĩa rất quan trọng,  không chỉ đóng góp vào sự tăng trưởng, phục hồi kinh tế sau đại dịch mà còn chuẩn bị sẵn sàng giúp ta ứng phó với những thách thức khó lường trong tương lai.

PV: Khi Hiệp định RCEP có hiệu lực, thương mại tự do sẽ giúp hàng ngoại tràn ngập thị trường Việt Nam. Bộ Công Thương sẽ làm gì để bình ổn thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa phát triển, thưa ông?

Ông Lương Hoàng Thái: Hiệp định RCEP tạo cơ hội để Việt Nam thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định, lâu dài trong một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới nhưng cũng đặt ra những thách thức khi tạo thuận lợi hơn cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN và các đối tác khác trong RCEP. Nhận thức được điều này, ngay từ giai đoạn đàm phán Hiệp định, Bộ Công Thương đã chủ động đưa ra nhiều giải pháp xử lý như:

- Tham vấn chặt chẽ các Bộ ngành, Hiệp hội doanh nghiệp liên quan nhằm đàm phán lộ trình phù hợp cho việc cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng nhạy cảm, giúp doanh nghiệp trong nước có thêm thời gian để chuẩn bị, thích nghi với sức ép cạnh tranh.

- Ưu tiên các cam kết cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất. Việc ưu tiên cắt giảm thuế quan đối với nhóm các mặt hàng này sẽ giúp giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp sản xuất trong nước, qua đó tăng sức cạnh tranh cho các hàng hóa sản xuất trong nước liên quan.

Trong thực tế, Việt Nam đã tham gia với các nước ASEAN và 5 nước đối tác trong RCEP theo các hiệp định FTA giữa nội khối ASEAN. Vì vậy, việc thực hiện hiệp định RCEP sau khi được thông qua sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam.

Ngoài ra, để phê chuẩn và thực thi Hiệp định RCEP, ta cũng sẽ có thêm những đổi mới mạnh mẽ về thủ tục hành chính, tạo điều kiện hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và cải thiện môi trường đầu tư. Điều này cũng sẽ giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước, tạo đà để ta tham gia sâu hơn và ổn định hơn vào các chuỗi giá trị mới thiết lập trong khu vực.

PV: Thưa ông, đối với ngành Thủy sản nói riêng thì Hiệp định RCEP có ý nghĩa như nào?

Ông Lương Hoàng Thái: Đa số các nước trong khối RCEP đều được đánh giá là có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm thủy sản tương đối cao. Tại khu vực RCEP, phần lớn các quốc gia có đặc điểm người tiêu dùng không quá khó tính, ngoại trừ 3 nước Nhật, Ốt-xtrây-lia và Niu Di-lân. Đối với các ngành thế mạnh của Việt Nam tại Hiệp định RCEP này, thủy sản sẽ là một trong những ngành có đủ sức cạnh tranh và có thể xâm nhập mạnh vào các thị trường của các đối tác RCEP.

 Trong khi đó, Việt Nam có nhiều chủng loại thủy sản đa dạng được phân bố dựa trên sự khác biệt về đặc điểm địa lý và về khí hậu và đang là nước đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu thủy sản và đã xuất khẩu đến hơn 185 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Ngay sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực, ngành Thủy sản Việt Nam sẽ “chắp thêm cánh”.

Ngoài ra, việc cam kết cắt giảm thuế quan của Trung Quốc, Nhật Bản, Niu Di-lân, Ốt-xtrây-lia và các nước ASEAN về 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực và của Hàn Quốc sau lộ trình cam kết 10-15 năm đối với phần lớn mặt hàng thủy sản của Việt Nam sẽ mở ra cơ hội mới cho Việt Nam xuất khẩu mặt hàng có thể mạnh này vào thị trường các nước RCEP này một cách nhanh chóng hơn và thuận lợi hơn.

PV: Xin cảm ơn ông!

Trang Nhung (thực hiện).