WB đưa ra những lý do dự báo GDP Việt Nam tăng trưởng 3% trong năm 2020

00:00 12/10/2020

Thu ngân sách và kim ngạch xuất khẩu dự kiến đều sẽ giảm, làm thâm hụt ngân sách khoảng 5 tỷ USD, do đó sẽ cần phải có các khoản vay mới.

WB đưa ra những lý do dự báo GDP Việt Nam tăng trưởng 3% trong năm 2020

Ảnh: Hostelworld

Với những quan ngại về kinh tế và y tế trên toàn cầu đang gia tăng, nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, mặc dù cho đến nay cuộc khủng hoảng y tế do đại dịch COVID 19 gây ra vẫn được kiểm soát, chỉ có 325 trường hợp nhiễm bệnh, trong đó 267 người đã bình phục và không ai bị tử vong đến đầu tháng 4.

Dự báo tăng trưởng GDP của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam đã giảm một nửa so với trước khủng hoảng, dự kiến chỉ ở mức 3,0% vào năm 2020.

Thu ngân sách và kim ngạch xuất khẩu dự kiến đều sẽ giảm, làm thâm hụt ngân sách khoảng 5 tỷ USD, do đó sẽ cần phải có các khoản vay mới.

Biện pháp ứng phó về tài chính của Chính phủ, trong đó kết hợp hỗ trợ về thuế và an sinh xã hội, dự kiến sẽ làm giảm nhẹ tác động kinh tế ngắn hạn liên quan đến đại dịch COVID 19, nhưng những thách thức chính sẽ là làm sao để triển khai nhanh chóng và hiệu quả các biện pháp trên và chuẩn bị cho sự phục hồi dự kiến của nền kinh tế khi cuộc khủng hoảng y tế đã được ngăn chặn.

Nới lỏng chính sách tiền tệ và tín dụng dễ dàng tạo ra nguồn vốn đệm mà các doanh nghiệp bị ảnh hưởng mong chờ, nhưng cần giám sát chặt chẽ khi các ngân hàng ngày càng phải đối mặt với suy thoái kinh tế, ảnh hưởng đến chất lượng tài sản, nợ phải trả và khả năng sinh lời theo thời gian.

Các lĩnh vực hợp tác tiềm năng giữa Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới có thể bao gồm (i) giám sát tài chính và vĩ mô; (ii) thực hiện các biện pháp an sinh xã hội; và (iii) những cải cách cần thực hiện để tối ưu hóa sự phục hồi của nền kinh tế.

Những trở lực ngày càng lớn sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng và yêu cầu huy động thêm vốn COVID-19 là một cú sốc khổng lồ, tàn phá xã hội và nền kinh tế trên toàn thế giới thường theo những cách gia tăng lẫn nhau. Hầu hết các quốc gia đều đang rơi vào suy thoái và dự kiến sẽ chưa thể phục hồi trước cuối Quý 3 năm 2020, nhưng sự phục hồi hy vọng sẽ gia tăng mạnh mẽ trong suốt năm 2021. Những bất ổn lớn đến mức cả hậu quả về y tế và tài chính của dịch bệnh trên toàn cầu đều đang rất khó dự đoán.

Trên toàn thế giới, các nhà kinh tế liên tục điều chỉnh những dự báo kinh tế của mình để phản ánh chính xác hơn tác động tiêu cực đang gia tăng của đại dịch trên toàn cầu, và Nhóm Ngân hàng Thế giới (NHTG) đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động này bằng những tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ tài chính vô cùng cần thiết.

Trong bối cảnh đó, các dự báo kinh tế cho Việt Nam đã được điều chỉnh giảm đáng kể. Sự bùng phát của dịch COVID-19 cho đến nay đã được ngăn chặn tại Việt Nam thông qua việc kết hợp các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát thông minh. 

Tăng trưởng GDP dự kiến chỉ đạt 3,0% vào năm 2020, vẫn tích cực so với khu vực và quốc tế nhưng đây là tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1986. Dự báo mới của WB thấp hơn tốc độ tăng trưởng dự kiến 4,9% trong báo cáo Cập nhật Kinh tế Đông Á-Thái Bình Dương mới được công bố gần đây. WB vẫn hy vọng nền kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi tương đối nhanh chóng và sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP là 6,8% vào năm 2021.

Kịch bản này giả định cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu sẽ bắt đầu giảm dần vào tháng 6 - tháng 7 năm 2020, sau đó nhu cầu trên thị trường quốc tế của các đối tác thương mại chính của Việt Nam sẽ phục hồi dần dần.

Lý do khiến tốc độ tăng trưởng bị điều chỉnh giảm là những trở lực ngày càng lớn hơn ở cả nền kinh tế trong nước và trên toàn cầu. Đến nay đã có thể dự báo trước là nền kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào suy thoái vào năm 2020. 

Kết quả điều tra của Tổ chức Conference Board vào ngày 25 tháng 3 ước tính GDP của Mỹ vào năm 2020 sẽ sụt giảm từ 1,6% đến 6%, với tỷ lệ dự báo cao là nền kinh tế sẽ nhanh chóng chuyển sang kịch bản tồi tệ hơn . 

Chỉ số Quản trị sản xuất PMI của khu vực đồng Euro giảm từ 51,6 trong tháng 2 xuống 31,4 vào tháng 3 - mức giảm lớn nhất kể từ khi dữ liệu so sánh được biên soạn lần đầu tiên vào tháng 7 năm 1998. NHTG dự báo tăng trưởng của các khu vực đang phát triển giảm xuống 0,9% vào năm 2020, thấp hơn so với dự báo 4,1% trong báo cáo

Triển vọng kinh tế toàn cầu (GEP) công bố trong tháng 1, với sự sụt giảm ở tất cả các khu vực trên thế giới, ngoại trừ Đông và Nam Á. Sự suy thoái toàn cầu này sẽ làm giảm mạnh nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế trong giai đoạn này. 

Nó cũng có thể phá vỡ chuỗi giá trị toàn cầu trong các ngành công nghiệp như hàng điện tử và dệt may, những lĩnh vực chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Ngành du lịch “đứng  yên”, do không có du khách nước ngoài nào được phép đến và các biện pháp hạn chế chặt chẽ trong việc đi lại trong nước và quốc tế. 

Đồng thời, nền kinh tế của các địa phương cũng đang bị ảnh hưởng bởi các biện pháp hạn chế hơn đối với việc di chuyển của người dân ảnh hưởng đến các doanh nghiệp và hộ gia đình, làm giảm tiêu dùng trong nước, đặc biệt từ khi Thủ tướng tuyên bố Tình trạng khẩn cấp vào cuối tháng 3.

Kết quả của Quý 1 vừa được công bố đã xác nhận tốc độ tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù dịch bệnh mới được báo cáo ở Trung Quốc vào giữa tháng 1 và Việt Nam bắt đầu thực hiện các biện pháp hạn chế vào đầu tháng 2, tốc độ tăng trưởng GDP của Quý 1 chỉ ở mức 3,8% - mức tăng thấp nhất kể từ năm 2009. 

Trong khi một số lĩnh vực hoạt động tương đối tốt (như sản xuất và xây dựng), ngành dịch vụ bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là hoạt động du lịch và vận tải. Tốc độ tăng trưởng của thương mại bán lẻ (phản ánh mức tiêu dùng của các hộ gia đình) gần như không thay đổi (tăng 1,5% theo giá thực) so với mức tăng 9,3% trong Quý 1 năm 2019. 

Tổng đầu tư cũng giảm nhẹ do đầu tư tư nhân (bao gồm cả FDI) thấp hơn mặc dù được bù đắp một phần nhờ tăng đầu tư công.

Xuất khẩu ròng, sau khi đạt kết quả tốt trong tháng 1 và tháng 2, lại đột ngột giảm trong tháng 3, chủ yếu do thu nhập từ du lịch và vận tải giảm (trên 30%).

Tương tự, số vốn FDI đã cam kết giảm gần 21% trong Quý 1 so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng trưởng GDP thấp hơn sẽ đi kèm với giảm thu ngân sách và thu từ xuất khẩu. Về xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán sẽ bị ảnh hưởng do xuất khẩu (ròng) thấp hơn trong một số dịch vụ nhất định, đi kèm với sự sụt giảm của kiều hối cũng như dòng vốn FDI. 

Do đó, thặng dư tài khoản vãng lai có khả năng giảm khoảng 5% GDP, từ mức 4,5% năm 2019 xuống còn 0,1% vào năm 2020. Tuy nhiên, tác động mang tính hệ quả đến cán cân thanh toán không nhiều với sự suy giảm nhỏ trong dự trữ ngoại hối vào năm 2020, ở mức 78 tỷ USD, cho thấy nguồn vốn đệm mạnh mẽ giúp chống lại áp lực ngày càng tăng đối với nguồn thu từ xuất khẩu của Việt Nam.

Nỗ lực củng cố tài khóa của Chính phủ sẽ tạm thời bị gián đoạn bởi cuộc khủng hoảng do COVID 19 gây ra. Thâm hụt ngân sách chung dự kiến sẽ tăng từ 4,4% trong năm 2019 lên khoảng 5,8% GDP vào năm 2020, chủ yếu là do nguồn thu thuế thấp hơn vì các hoạt động kinh tế dự kiến sẽ suy giảm. 

Trên cơ sở ngoại suy từ một nghiên cứu gần đây của IMF đối với một lượng lớn các quốc gia, chúng tôi ước tính sẽ có sự suy giảm đáng kể trong các hoạt động kinh tế do một cú sốc như đại dịch hiện nay có khả năng làm giảm nguồn thu thuế xuống hai lần - có nghĩa là mức giảm 3,5% trong tăng trưởng GDP có thể dẫn đến giảm 7% nguồn thu thuế hoặc tương đương với khoảng 1,2% GDP .

Mức thu ngân sách giảm này cần được tính cộng thêm với chi phí liên quan đến gói hỗ trợ tài chính mà các cơ quan chức năng đang xem xét. WB hy vọng Chính phủ sẽ quay trở lại chính sách tài khóa thận trọng sau hậu quả của cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhờ đó thâm hụt ngân sách nói chung sẽ giảm xuống lần lượt 4,7% và 4,0% GDP vào năm 2021 và 2022.

Thâm hụt dự kiến gia tăng sẽ làm ngân sách bị thiếu khoảng 5 tỷ USD vào năm 2020. So với các dự báo trước khủng hoảng, Chính phủ sẽ cần đảm bảo có thêm 1,8% GDP cho nguồn vốn đầu tư mới, làm nợ công tăng từ 54,1% lên 55,8% GDP trong các năm 2019 và 2020.

Vì Chính phủ sẽ tiếp tục củng cố tài khóa vào năm 2021, quỹ đạo nợ sẽ được duy trì bền vững trong trung hạn. 

Để giảm thiểu những cú sốc lớn về kinh tế và y tế đối với nền kinh tế, Chính phủ đã thực hiện một loạt các biện pháp. Trong điều kiện khủng hoảng, các chỉ số tổng hợp về y tế, kinh tế và tài chính nhanh chóng chuyển từ giai đoạn tiền khủng hoảng bình thường lên mức đỉnh của các khó khăn, và sau đó bắt đầu suy giảm trước khi trở lại bình thường (không cần phải khớp với mức bình thường trước khủng hoảng).

Điều quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách là đỉnh của nửa chu kỳ và khoảng thời gian trước khi đạt đỉnh.

Khủng hoảng càng sâu (đỉnh của nửa chu kỳ càng cao), nó càng gây tổn thất nhiều hơn trong dài hạn. Rõ ràng trong trường hợp y tế, làm phẳng đường cong đại dịch có ý nghĩa rất quan trọng vì giúp cứu được mạng sống. Vì lý do này, Chính phủ đã tập trung nỗ lực ban đầu vào việc kiểm soát khía cạnh y tế của cuộc khủng hoảng bằng cách tăng cường kiểm tra và kiểm soát việc di chuyển.

Theo thời gian, các biện pháp phòng ngừa ngày càng mạnh đã được thực hiện, từ việc đóng cửa trường học vào đầu tháng 2 đến việc Thủ tướng tuyên bố Tình trạng khẩn cấp vào cuối tháng 3. Hiện nay, gần như tất cả các chuyến bay chở khách từ nước ngoài đã bị hủy và việc di chuyển trong nước bị hạn chế nghiêm trọng. 

Do đã hành động sớm (bao gồm cả truy tìm lịch sử dịch tễ) và thực hiện các biện pháp trên phạm vi rộng, Việt Nam đã được quốc tế công nhận về mức độ phù hợp của các biện pháp ứng phó, nhờ đó đã có ít các trường hợp nhiễm bệnh (khoảng 240 ca bệnh vào ngày 4/4) và không có trường hợp tử vong nào được báo cáo.

Cần tránh một cuộc suy thoái kinh tế sâu và kéo dài đến một mức có thể được vì nó có thể gây thiệt hại lâu dài. Chu kỳ kinh tế thường xuyên xuất hiện, ngay cả trong nền kinh tế thị trường. Nếu đỉnh của chu kỳ không quá cao, mọi thứ sẽ trở lại bình thường khi nền kinh tế trở lại xu hướng dài hạn.

Nhưng suy thoái sâu và kéo dài hơn có khả năng làm xói mòn vốn nhân lực và suy yếu các thể chế. Như đã phân tích trong bản cập nhật báo cáo chính sách trước đây của chúng tôi, điều quan trọng là WB phải thực hiện theo một chiến lược có trình tự để hỗ trợ hầu hết các doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng trong thời gian ngắn và chuẩn bị đủ sớm để tái khởi động nền kinh tế khi cuộc khủng hoảng y tế chấm dứt, hy vọng trong vài tháng tới. 

Các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ của chương trình đầu tư công và cải cách cơ cấu hiện nay để sử dụng có hiệu quả nhất các công nghệ kỹ thuật số cũng như tăng cường khả năng chống chịu và sẵn sàng ứng phó của hệ thống y tế cho các đại dịch trong tương lai có thể giúp đẩy nhanh tốc độ phục hồi.

Cho đến nay, Chính phủ đã chuẩn bị một loạt các biện pháp tài khóa để giảm thiểu tác động đối với hầu hết doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng - bước đầu tiên trong một kế hoạch ứng phó kinh tế toàn diện. Đại dịch COVID 19 có thể ảnh hưởng đến phúc lợi của người dân thông qua ba kênh khác nhau: (i) các biện pháp phòng ngừa và chữa bệnh; (ii) các biện pháp hạn chế di chuyển; và (iii) các biện pháp gây rối thương mại. 

Tác động mang tính hệ quả của các kênh này có thể là bao gồm cả giảm sản lượng và tăng giá. Các chuyên gia của Nhóm NHTG đã trao đổi với các cơ quan chức năng về nội dung và quy mô của gói hỗ trợ tài chính mà sẽ giúp giảm thiểu tác động của các kênh này. Tuy nhiên, đánh giá của chúng tôi dựa trên thông tin được thu thập vào đầu tháng 4, biết rằng các biện pháp chính sách để ứng phó với dịch bệnh sẽ thay đổi nhanh chóng nhằm điều chỉnh theo những điều kiện thường xuyên thay đổi.

Các biện pháp giảm thiểu ban đầu tập trung vào hai loại công cụ: giãn thời gian nộp thuế và bảo hiểm xã hội, và hỗ trợ tài chính trực tiếp cho người lao động và các hộ gia đình dễ bị tổn thương. Những công cụ này rất phù hợp với thông lệ quốc tế vì chúng nhằm mục đích giảm bớt khó khăn về dòng tiền cho hầu hết các doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng. 

WB đánh giá sơ bộ là gói hỗ trợ đang được đề xuất này đầy tham vọng vì bao phủ hầu hết các công ty có đăng ký chính thức hoạt động tại Việt Nam bằng việc hoãn thời gian nộp thuế và sử dụng các chương trình an sinh xã hội hiện có để chuyển thêm tiền mặt cho khoảng 26 triệu người dễ bị tổn thương và các doanh nghiệp hộ gia đình. 

Chương trình hỗ trợ này cũng nằm trong khả năng chi trả của ngân sách với chi phí ước tính khoảng 1% GDP, vẫn nằm trong giới hạn của khung tài khoá đã phân tích ở phần trên. Tuy nhiên, cần thực hiện một số thay đổi để bao phủ khu vực không chính thức nhiều hơn. 

Một thách thức lớn sẽ là xác định các doanh nghiệp và người lao động trong khu vực không chính thức và chuyển tiền cho họ khi mà hầu hết đều không có tài khoản ngân hàng và bị hạn chế di chuyển.

NGỌC DIỆP