Về Đường Lâm, hồn quê xứ Đoài đất hai vua

23:41 06/07/2021

Quê hương nhiều danh nhân như bà Man Thiện (mẹ của Hai Bà Trưng), Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, vua Ngô Quyền, Thám hoa Giang Văn Minh, bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An,... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Phùng Hưng và Ngô Quyền.

Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) là ngôi làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao Bằng Di tích Lịch sử văn hóa quốc gia năm 2006. Không chỉ là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Đường Lâm còn mang trong mình nhiều kiến trúc mang đặc trưng văn hóa, tâm linh của làng Việt xưa.

 Đường Lâm- đất hai vua.

“Điểm” những dấu tích lịch sử

Đường Lâm có tên gọi nôm là Kẻ Mía - quê hương của nhiều danh nhân như Ngô Quyền, Phùng Hưng...

Trong sách Đại Việt địa dư toàn biên có viết: “Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng và Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương”.

Đền và lăng Ngô Quyền được xây dựng năm Tự Đức thứ 27 (1874) trên đồi Cấm, quay mặt về phía Đông, nhìn ra cánh đồng. Phía bên cạnh là đồi Hổ Gầm, tương truyền là nơi thuở nhỏ Ngô Quyền thường cùng bạn chăn trâu, cắt cỏ và tập luyện võ nghệ. 18 cây duối cổ ở khu vực này đã được công nhận là “Cây di sản” cấp quốc gia, tương truyền là nơi Ngô Quyền sử dụng buộc voi, ngựa thuở xưa. Vào ngày 14 tháng 8 Âm lịch (ngày Giỗ vua Ngô Quyền), nhân dân trong vùng lại về đây để tưởng nhớ công ơn vị vua đã “mở nước xưng vương”, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở đầu một thời đại độc lập, tự chủ cho lịch sử dân tộc.

Cách đền Ngô Quyền chừng 500 m là đền Phùng Hưng - một thủ lĩnh đã lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa vào tháng 4 năm Tân Mùi (791), chống lại ách đô hộ khắc nghiệt của nhà Đường. Trong đền thờ, có tấm bia Phùng tự bi ký được tạc vào năm Hồng Đức thứ 4 (1473), khắc nhiều thông tin về đời, sự nghiệp Phùng Hưng.

Chùa Mía tại làng cổ Đường Lâm trên một đồi đá ong, được ghi nhận là ngôi chùa lưu giữ nhiều tượng nghệ thuật nhất Việt Nam (287 tượng), trong đó có 6 pho tượng đồng, 106 pho tượng gỗ và 174 pho tượng bằng đất luyện được sơn son thếp vàng. Trên gác của chùa có treo quả chuông đúc năm Cảnh Hưng thứ 4 (1743) và một khánh đồng đúc năm Thiệu Trị thứ 6 (1864). Ngoài ra, nơi đây còn giữ được bộ khung gỗ có nhiều phần điêu khắc thế kỷ XVII, đồng thời có bảo tháp Cửu phẩm Liên Hoa cao 13 m thờ vọng xá lợi Đức Phật. Năm 1993, chùa Mía đã được Bộ VHTT (nay là Bộ VH-TT&DL), xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật.

Đường Lâm còn được biết đến là quê hương của Thám hoa Giang Văn Minh, bà Chúa Mía (vương phi của Chúa Trịnh Tráng), bà Man Thiện (mẹ của Hai Bà Trưng), Phan Kế Toại (Phó Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 4 nhiệm kỳ), Hà Kế Tấn (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi 1964 - 1973), Phan Kế An (họa sỹ vẽ tranh biếm họa của báo Sự thật)…

Sót lại cổng làng Mông Phụ

Ngày nay, làng Đường Lâm vẫn giữ được hầu hết các đặc trưng cơ bản của một ngôi làng cổ với cổng làng, bến nước, đình, chùa, giếng nước, cây đa, ruộng nước, gò đồi.

Theo chân nhóm học sinh trường Tiểu học Ban Mai (Hà Đông, Hà Nội) về với Đường Lâm, bước chân xuống xe, hết thảy ai cũng trầm trồ, thích thú bởi một không gian đồng quê thanh bình với hồ sen bên cổng làng và một vạt lúa đang ngả vàng đơm bông.

Cả đoàn vào nghỉ ở ngôi nhà cổ đầu tiên của ông Nguyễn Văn Vững, ngay sát hồ sen. Căn nhà bao phủ bởi rất nhiều vòm lộc vừng chen nhau xõa xuống sân, vườn và những mái ngói rêu xanh. Nhâm nhi chén nước vối xanh, chút chè lam chủ nhà đãi khách, đón gió hồ sen thổi vào mát rượi, ai cũng hít hà thật sâu, dang tay như muốn ôm lấy cả không gian yên bình.

Bước qua cổng làng nhuốm màu rêu phong, trầm ngâm dưới bóng cây đa khổng lồ hơn 300 năm tuổi, những ngõ xóm đường làng lát gạch đỏ nghiêng. Những căn nhà gỗ bạc màu cùng mái ngói thâm nâu, tường đá ong cũ kỹ dần hiện ra. Điểm thêm vào đó là những dàn dây leo, những cây hoa tim tím. Tất cả vừa mộc mạc, gần gũi, lại vừa thấy như một sự kết nối, tạo thành quần thể xóm làng gắn bó bên nhau, thiêng liêng và trìu mến.

Ông Vững làm hướng dẫn viên cho cả đoàn, chia sẻ: “Cổng làng Mông Phụ được xây dựng từ năm 1833 bằng đá ong cổ, bên trên còn tựa dòng chữ “thế hữu hưng ngơi đại” (tạm hiểu là “thời nào cũng có người tài giỏi). Trước kia, làng có tới 5 cổng, một cổng lớn và 4 cổng trấn tứ phương. Nhưng theo thời gian mai một, đến nay chỉ còn sót lại cổng làng Mông Phụ”.

Vượt qua cổng làng chừng 300 mét là đến đình Mông Phụ (di tích cấp quốc gia của làng cổ Đường Lâm) - đặc trưng cho đình Việt truyền thống, được xây dựng năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông). Đình là nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh - vị đứng đầu trong tứ bất tử của người Việt làm Thành hoàng làng.

Truyền thuyết kể rằng, đình Mông phụ đặt trên đầu một con rồng, giếng làng là mắt rồng. Sân trước cửa đình thấp hơn so với mặt bằng xung quanh với ngụ ý của người xưa: Khi trời đổ mưa, nước từ các phía sẽ ào ạt đổ vào sân đình, như một khát vọng cho đời sống ấm no. Từ đây, nước sẽ theo các cống nhỏ dọc theo nách đình, nếu nhìn từ xa sẽ thấy 2 rãnh nước nhỏ này như 2 cái râu rồng.

Nơi hội tụ các di sản

Chia sẻ về ngôi nhà cổ ở Đường Lâm, ông Vững cho biết, làng có tổng số gần 1.000 ngôi nhà cổ, nhiều nhà được xây dựng cách đây hơn 300 năm. Các ngôi nhà cổ ở Đường Lâm, mùa hè rất mát, mùa đông ấm, được xây dựng chủ yếu bằng những vật liệu truyền thống của xứ Đoài như đá ong, tre, gỗ xoan, nứa, đất nung, ngói, đất nện, trấu, mùn cưa...

“Mỗi ngôi nhà được coi là một đồ gia bảo mang trong mình nhiều trầm tích lịch sử, văn hóa, đồng thời cũng là nơi thờ tự thiêng liêng của mỗi dòng họ”, ông Vững vừa nói vừa dẫn đoàn ghé thăm nhà ông Bùi Xuân Thể.

Cổng nhà ông Thể mộc mạc với cổng gỗ nâu xỉn, đặc biệt là tay cầm để mỏ trên các cánh, tựa như hình những chiếc chuôi dao. Cách thiết kế cổng theo kiểu tay cầm tròn theo cách của người xưa, có dụng ý riêng. Bởi vốn cổng ngoài ngõ thường khá xa với cửa nhà, khách đến chơi khó có thể nghe thấy tiếng gọi cổng. Với lại, người xưa vốn không thích tạo sự ồn ào. Vì thế, bên trong cổng thiết kế chốt gài sao cho bên ngoài xoay tròn tay cầm có thể mở được, khách cứ tự nhiên vào nhà. Nếu không mở được, có nghĩa là chủ nhà đi vắng, hoặc hôm nay không sẵn sàng để tiếp khách.

Ngôi nhà của ông Thể có hơn 200 năm tuổi, được xây dựng từ thời hậu Lê với 7 gian, 2 chái, mái cánh diều. Kiến trúc nhà cổ mang phong cách nhà quan, các gian rộng hơn so với nhà khác, do đời xưa nhà có người làm quan. Nhà ông Thể có nghề làm tương, sân gạch bày rất nhiều chum, vại. Màu gốm đất của các chum tương, bên chiếc bể nước hình chữ nhật có mái vòm cao phủ đầy hoa hoàng yến vàng lên từng chùm trong nắng, dưới bóng hàng cau. Theo ông Thể, nghề làm tương ở Đường Lâm cũng rất nổi tiếng, chất lượng tương không hề thua kém tương Bần (Hưng Yên), tương Cự Đà (Thanh Oai, Hà Nội).

Lãnh đạo UBND Thành phố khẳng định: “Hiếm có vùng đất nào mà dấu tích lịch sử lại dày đặc như ở Đường Lâm - là nơi hội tụ của các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú. Sự phát triển về du lịch nơi đây, đã góp phần tạo công ăn việc làm và nguồn thu nhập cho người dân Đường Lâm, đồng thời quảng bá rộng rãi hình ảnh của vùng đất chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa này”

Trần Đạt