TS. Nguyễn Văn Thân: Doanh nghiệp phải có một tâm thế “đổi mới, cầu thị, hợp tác và thành công"

00:00 12/10/2020

Sáng ngày 05/06, tại Hội nghị “Hỗ trợ doanh nghiệp SMEs tận dụng cơ hội, thực thi hiệu quả EVFTA” do Bộ Công thương phối hợp với Hiệp hội doanh nghiệp Nhỏ và Vừa Việt Nam tổ chức. TS. Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đã có ý kiến về những cơ hội thách thức của cộng đồng doanh nghiệp trước Hiệp định thương mại tự do EVFTA đồng thời thay mặt Vinasme ông cũng đưa ra một số kiến nghị, giải pháp tới Chính Phủ.

Tại Hội nghị, TS. Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đánh giá rất cao nỗ lực không mệt mỏi của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương và các bộ ngành hữu quan khác trong suốt gần 10 năm đàm phán và đi đến ký kết hiệp định EVFTA vào ngày 30/6/2019. Ông cho biết "Tôi rất tâm đắc với phát biểu ấn tượng của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh tại buổi họp báo ngày 12/2, ngay sau khi Hiệp định EVFTA được nghị viện Châu Âu bỏ phiếu thông qua với số phiếu áp đảo: “Việt Nam là nước đang phát triển đầu tiên tại Châu Á-Thái Bình Dương có quan hệ thương mại tự do với EU. Điều này khẳng định vai trò và vị thế chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực, khẳng định Việt Nam – từ quốc gia đi sau trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, lần đầu tiên đã vươn lên trở thành nước đi đầu”. "

Từ góc nhìn của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. TS. Nguyễn Văn Thân - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa đưa ra 3 nội dung chính liên quan tới hiệp định thương mại tự do EVFTA.

Đầu tiên, về các cơ hội mà Hiệp định EVFTA mang lại  TS. Nguyễn Văn Thân cho rằng hiện cộng đồng doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đang nắm trong tay 4 lợi thế: 

1) Cơ hội miễn thu

- Ngay ngày đầu tiên sau khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực và đi vào thực thi, EU sẽ ngay lập tức miễn thuế nhập khẩu đối với 85,6% dòng thuế, tương đương với 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Và sau 07 năm, EU sẽ miễn thuế nhập khẩu đối với 99,2% dòng thuế, tương đương với 99,7% kim ngạch xuất khẩu của ta sang họ. Đối với một số ít mặt hàng còn lại, EU cam kết sẽ dành cho Việt Nam thuế suất nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%. Như vậy, có thể nói là: gần như toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam qua thị trường EU sẽ được miễn thuế sau một lộ trình ngắn là 07 năm.

2) Cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư từ các nước thành viên EU:

- EVFTA là hiệp định có phạm vi cam kết rộng và mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước đến nay, đồng thời cũng là một trong những hiệp định toàn diện và tham vọng nhất mà EU từng ký kết với một nước đang phát triển. Các cam kết này sẽ là động lực để Việt Nam cải cách thể chế và khung pháp lý, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện đầu tư thuận lợi và an toàn hơn cho các nhà đầu tư. Như vậy, có thể thấy là các cam kết cắt giảm thuế quan và thuận lợi hóa thương mại trong EVFTA sẽ là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy FDI đầu tư vào thị trường của ta.

3) Cơ hội tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp khi tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu:

- EVFTA là cơ hội vàng để Việt Nam tạo một cú hích lịch sử, xóa bỏ sự lệ thuộc vào một nhóm thị trường truyền thống vốn đang bị đứt gãy do dịch Covid-19 để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và đa dạng hóa thị trường đối tác.

4) Cơ hội nâng cao vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong khối ASEAN:

Các nước ASEAN đang chạy đua quyết liệt để tìm chỗ đứng tại thị trường châu Âu, nhưng cho đến nay mới chỉ có Singapore và Việt Nam đã ký kết hiệp định thương mại tự do với khối kinh tế này. Quan trọng là cả 2 nước đều xuất khẩu những mặt hàng khác nhau qua châu Âu, nên lợi thế dành cho ta là rất lớn. Trong một thập niên tới, doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ có lợi thế hơn hẳn các doanh nghiệp trong khu vực vì được tiếp cận sớm với các ưu đãi thương mại.

Bên cạnh đó TS. Nguyễn Văn Thân cũng đưa ra những khó khăn, thách thức mà công động doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải " Cơ hội là rất lớn, nhưng thách thức cũng không hề nhỏ, muốn thành công thì phải biết rõ được những khó khăn và hạn chế từ phía mình. Thị trường EU là một thị trường rất lớn: bao gồm 27 quốc gia với dân số khoảng gần 500 triệu người, thu nhập bình quân rất cao (36.000 USD/người); có một nền tảng vững chắc về thể chế, chính sách và pháp luật – một thị trường rất khó tính, đòi hỏi phải có: Một tâm thế “đổi mới, cầu thị, hợp tác và thành công”."

 TS. Nguyễn Văn Thân 

Thứ nhất, thách thức về các rào cản kỹ thuật ông đánh giá doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với một loạt các rào cản về: an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh dịch tễ, quy tắc ứng xử, các quy định về bảo vệ môi trường, nguồn gốc xuất xứ và các quy định về tỷ lệ nội địa hóa… Những rào cản này sẽ gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa khi khả năng đáp ứng của họ còn hạn chế.

Thứ hai là thách thức về sức ép cạnh tranh với hàng hóa của EU, khi mở cửa thị trường cho hàng hóa của đối tác, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải chấp nhận một cuộc chơi sòng phẳng ngay trên sân nhà. Trong khi các doanh nghiệp châu Âu sở hữu nhiều yếu tố cạnh tranh đặc thù thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải tìm kiếm những lợi thế độc đáo riêng để chiến thắng trong cuộc chơi này.

Thứ ba, thách thức trước các biện pháp phòng vệ thương mại khi hàng rào thuế quan không còn là công cụ hữu hiệu để bảo vệ doanh nghiệp thì các nước nhập khẩu thường có xu hướng áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp hoặc các biện pháp tự vệ để bảo toàn lực lượng sản xuất trong nước. EU cũng không nằm ngoài xu hướng đó, cho nên đây cũng là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ tư, thách thức từ cạnh tranh nguồn lao động khi nền kinh tế mở cửa trong bối cảnh dịch Covid-19 sẽ tạo ra một làn sóng dịch chuyển sản xuất, đầu tư từ châu Âu sang Việt Nam, dẫn đến các ngành nghề và doanh nghiệp cạnh tranh khốc liệt để thu hút nguồn lực lao động, nhất là lao động chất lượng cao, vậy nên sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ tại thị trường Việt Nam.  

Thứ năm, thách thức về thiếu thông tin, kiến thức và kỹ năng xuất nhập khẩu hàng hóa với EU. Doanh nghiệp nhỏ và vừa rất mong muốn được thử sức với một thị trường mới, nhưng lại không chủ động cập nhật thông tin, kiến thức về các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật và nhu cầu tiêu thụ của nước sở tại. Nguyên nhân là bởi trình độ ngoại ngữ và kỹ năng chuyên môn của cả chủ doanh nghiệp lẫn người lao động còn hạn chế, nên nhiều khi còn ngại ngùng vì biết chắc chắn sẽ tốn nhiều thời gian để tìm hiểu những thông tin trên.

Cuối cùng là thách thức về nguồn vốn dành cho sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 98% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, tuy nhiên số lượng doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chiếm đến trên 70%. Bước vào hiệp định EVFTA, các doanh nghiệp không khỏi lúng túng, trăn trở, vì nguồn vốn của họ không có nhiều, trong khi các điều kiện về công nghệ kỹ thuật, môi trường, nguồn gốc xuất xứ và tỷ lệ nội địa hóa... của EVFTA là rất khắt khe, đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư rất lớn.

Dựa trên những cơ hội, thách thức kể trên, đại diện cho Vinasme TS. Nguyễn Văn Thân đưa ra 6 đề xuất, kiến nghị với Chính Phủ:

1) Chính phủ cần đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cải cách thủ tục hành chính; chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách; đề xuất Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung, kịp thời thông qua một số đạo luật quan trọng như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Môi trường, Bộ luật Lao động và một số luật về thuế để phù hợp với các quy định của EVFTA, giúp doanh nghiệp có đầy đủ cơ sở pháp lý để thực thi hiệu quả hiệp định.

2) Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành hữu quan triển khai tuyên truyền, đào tạo, tập huấn về nội dung của hiệp định cho các doanh nghiệp, giúp họ trang bị đầy đủ kiến thức để tự tin tham gia thị trường. Chúng tôi biết Bộ Công Thương đang mở các khóa tập huấn về Hiệp định EVFTA, vì thế chúng tôi đánh giá đây là việc làm cần thiết và hết sức ý nghĩa.

3) Chính phủ cần tăng cường nguồn lực tài chính và tạo điều kiện thuận lợi cho DNNVV tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ, vốn vay ưu đãi để triển khai các dự án trong khuôn khổ hiệp định EVFTA.

4) Chính phủ cần hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để nâng cao năng lực quản trị, điều hành.

5) Chính phủ cần cắt giảm một số tiêu chí đấu thầu, chia nhỏ các dự án đầu tư công để doanh nghiệp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa có thêm cơ hội thử sức và đầu tư phát triển.

6) Chính phủ cần đưa ra các giải pháp hữu hiệu để thu hút nguồn lực “nhàn rỗi ngắn hạn và dài hạn” trong dân và doanh nghiệp.

Thứ nhất: Nên phát hành trái phiếu nhiều hơn nữa liên quan tới các dự án đầu tư công để huy động ngoại tệ và các tài sản quý như vàng bạc, đá quý.

Thứ hai: Sớm ban hành cơ chế thí điểm có giám sát (sandbox) cho các hoạt động fintech, bao gồm hoạt động cho vay ngang hàng (P2P lending);

Cuối cùng, Chính phủ cần tập trung khai thác thị trường nội địa trên tinh thần “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Các dịch vụ liên quan tới du lịch, giải trí, ăn uống cần được chú trọng mở rộng vào ban đêm. Chúng ta cần nhanh chóng khai thác “kinh tế ban đêm” trên quy mô toàn quốc.

P.V