Trống đồng được coi là bảo vật của Việt Nam. Hiện nay, trống đồng rất được yêu thích và sử dụng làm quà tặng, trang trí nội thất. Tuy nhiên, không phải vị khách nào sở hữu chiếc trống đồng đều hiểu về ý nghĩa tiềm ẩn của những hoa văn tinh xảo trên chúng. Đây không chỉ là những tinh hoa của người nghệ nhân chế tác mà còn là nét đẹp mà bao đời nay ông cha ta vẫn lưu truyền từ đời này sang đời khác.

Trống đồng được coi là bảo vật của Việt Nam. Hiện nay, trống đồng rất được yêu thích và sử dụng làm quà tặng, trang trí nội thất. Tuy nhiên, không phải vị khách nào sở hữu chiếc trống đồng đều hiểu về ý nghĩa tiềm ẩn của những hoa văn tinh xảo trên chúng. Đây không chỉ là những tinh hoa của người nghệ nhân chế tác mà còn là nét đẹp mà bao đời nay ông cha ta vẫn lưu truyền từ đời này sang đời khác.

 

Trống đồng Đông Sơn là một loại trống đã có từ thời kỳ Hùng Vương; vào những thế
kỷ 6 TCN và thế kỷ 7 TCN tại miền Bắc nước ta. Trống đồng có kích thước rất đa dạng,
chiếc trống lớn nhất thường có đường kính lên tới 90cm, chiều cao gần 60cm và cân
nặng khoảng 100kg.
Những chiếc chống được làm từ hợp kim đồng được nung chảy và sử dụng khuôn đúc;
vì kích thước và cân nặng của trống rất lớn nên đòi hỏi người thợ sẽ phải là những nghệ
nhân có kinh nghiệm nhiều năm trong nghề.

Trống đồng Đông Sơn là một loại trống đã có từ thời kỳ Hùng Vương; vào những thế kỷ 6 TCN và thế kỷ 7 TCN tại miền Bắc nước ta. Trống đồng có kích thước rất đa dạng, chiếc trống lớn nhất thường có đường kính lên tới 90cm, chiều cao gần 60cm và cân nặng khoảng 100kg.

Những chiếc chống được làm từ hợp kim đồng được nung chảy và sử dụng khuôn đúc; vì kích thước và cân nặng của trống rất lớn nên đòi hỏi người thợ sẽ phải là những nghệ nhân có kinh nghiệm nhiều năm trong nghề. 

Theo sử sách lưu lại, người xưa thường sử dụng trống đồng để làm báo hiệu ra trận. Hay
sẽ được sử dụng như một loại nhạc cụ, kết hợp với dàn nhạc trong vương triều phong kiến
(theo sách “Cương mục”) hoặc trong quân đội. Ngoài ra, ở một số địa phương còn có tập
tục sử dụng trống cho lễ mai táng của người mất hoặc là ngày lễ hội của người Mường ở
tỉnh Hòa Bình.

Những chiếc trống đồng còn là biểu tượng cho sự quyền lực của các vị vua, thủ lực thời
đó. Đôi khi, trống đồng còn là phần thưởng của các vị vua dành cho tù trưởng người dân
tộc thiểu số, thể hiện uy quyền của nhà nước trước những vùng tự trị, tự do tương đối.

Theo sử sách lưu lại, người xưa thường sử dụng trống đồng để làm báo hiệu ra trận. Hay sẽ được sử dụng như một loại nhạc cụ, kết hợp với dàn nhạc trong vương triều phong kiến (theo sách “Cương mục”) hoặc trong quân đội. Ngoài ra, ở một số địa phương còn có tập tục sử dụng trống cho lễ mai táng của người mất hoặc là ngày lễ hội của người Mường ở tỉnh Hòa Bình.

Những chiếc trống đồng còn là biểu tượng cho sự quyền lực của các vị vua, thủ lực thời đó. Đôi khi, trống đồng còn là phần thưởng của các vị vua dành cho tù trưởng người dân tộc thiểu số, thể hiện uy quyền của nhà nước trước những vùng tự trị, tự do tương đối.

 

Ngoài là một món nhạc khí, trống đồng còn là biểu tượng của quyền lực hay những lễ hội,
tôn giáo,... Ý nghĩa quan trọng nhất của trống đồng Đông Sơn có thể kể tới chính là một
bức tranh lịch sử sống động kể lại về những sinh hoạt nông nghiệp của người Việt cổ. Có
rất nhiều họa tiết trống đồng Đông Sơn được khắc trên mặt trống và xung quanh thân
như: mặt trời, nhà sàn, người giã gạo, chim cò bay, thuyền ghe, người đánh trống, người
nhảy múa, người đối đáp;...
Như Bác Hồ đã từng nói “...Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng
nhau giữ lấy nước...”. Cùng với nhiều chiếc trống đồng loại khác trên khắp đất nước Việt
Nam; đây đều là những tư liệu vô cùng quý báu chứng minh nguồn gốc ra đời và đã có vị
trí linh thiêng trong đời sống tâm linh của người Việt.

Ngoài là một món nhạc khí, trống đồng còn là biểu tượng của quyền lực hay những lễ hội, tôn giáo,... Ý nghĩa quan trọng nhất của trống đồng Đông Sơn có thể kể tới chính là một bức tranh lịch sử sống động kể lại về những sinh hoạt nông nghiệp của người Việt cổ. Có rất nhiều họa tiết trống đồng Đông Sơn được khắc trên mặt trống và xung quanh thân như: mặt trời, nhà sàn, người giã gạo, chim cò bay, thuyền ghe, người đánh trống, người nhảy múa, người đối đáp;...

Như Bác Hồ đã từng nói “...Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước...”. Cùng với nhiều chiếc trống đồng loại khác trên khắp đất nước Việt Nam; đây đều là những tư liệu vô cùng quý báu chứng minh nguồn gốc ra đời và đã có vị trí linh thiêng trong đời sống tâm linh của người Việt. 

Trống đồng Đông Sơn không chỉ là vật linh; mà thông qua đó chúng ta đã được sáng tỏ
nhiều vấn đề khoa học mà trống đồng là thông điệp làm nên biểu tượng tập trung nhất
những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước
được xác lập đầu tiên trên đất nước ta – Nhà Nước Hùng Vương. Đây là những “vật
chứng” khẳng định những giá trị về truyền thống, đạo lý nhân văn sâu sắc của dân tộc
Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước với bao biến cố, thăng trầm
vẫn hiên ngang đứng vững và tự hào phát triển đi lên cùng nhân loại.

Trống đồng Đông Sơn không chỉ là vật linh; mà thông qua đó chúng ta đã được sáng tỏ nhiều vấn đề khoa học mà trống đồng là thông điệp làm nên biểu tượng tập trung nhất những thành tựu trong sinh hoạt kinh tế, văn hóa, xã hội và quyền uy của một nhà nước được xác lập đầu tiên trên đất nước ta – Nhà Nước Hùng Vương. Đây là những “vật chứng” khẳng định những giá trị về truyền thống, đạo lý nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước với bao biến cố, thăng trầm vẫn hiên ngang đứng vững và tự hào phát triển đi lên cùng nhân loại. 

Những họa tiết trên trống đồng Đông Sơn; có thể nói chính là bức tranh miêu tả về cuộc
sống sinh hoạt nông nghiệp của người Việt cổ. Với tay nghề điêu luyện của những nghệ
nhân, bức tranh được hiện lên một cách sinh động, hiện thực và ẩn sâu trong đó là sự cách
điệu theo thời gian.

Những họa tiết trên trống đồng Đông Sơn; có thể nói chính là bức tranh miêu tả về cuộc sống sinh hoạt nông nghiệp của người Việt cổ. Với tay nghề điêu luyện của những nghệ nhân, bức tranh được hiện lên một cách sinh động, hiện thực và ẩn sâu trong đó là sự cách điệu theo thời gian.

 

Ảnh minh họa
Tiết đông chí: Tại đường bán kính từ trung tâm bông hoa kéo ra, hình vẽ cái nhà sàn, có
hai vợ chồng con chim trên nóc mái, và trong nhà có ba người đang nằm vừa ngồi nhỏm

dậy. Góc phải của nhà sàn ở mặt đất xuất hiện một đồ vật giống như chiếc cối nằm ng-
hiêng. Và góc trái là hình một đứa nhỏ gõ vào một đồ vật như một chiếc trống nhỏ, giống

như là để báo thức.

Có thể hiểu rằng; sau khi trải qua một mùa đông, các loài vật đông miên ngủ vùi đến ngày
đông chí mới tỉnh dậy; cùng thời điểm này những mầm mộng của các loài hoa lá trên cây
cũng bắt đầu đâm chồi nảy lộc; bắt đầu một hành trình mới.

Tiết đông chí: Tại đường bán kính từ trung tâm bông hoa kéo ra, hình vẽ cái nhà sàn, có hai vợ chồng con chim trên nóc mái, và trong nhà có ba người đang nằm vừa ngồi nhỏm dậy. Góc phải của nhà sàn ở mặt đất xuất hiện một đồ vật giống như chiếc cối nằm ng- hiêng. Và góc trái là hình một đứa nhỏ gõ vào một đồ vật như một chiếc trống nhỏ, giống như là để báo thức.

Có thể hiểu rằng; sau khi trải qua một mùa đông, các loài vật đông miên ngủ vùi đến ngày đông chí mới tỉnh dậy; cùng thời điểm này những mầm mộng của các loài hoa lá trên cây cũng bắt đầu đâm chồi nảy lộc; bắt đầu một hành trình mới.

Ảnh minh họa
Hình ảnh ngôi sao trên bề mặt trống là biểu tượng cho mặt trời. Người Việt cổ rất coi
trọng mặt trời bởi đây là nguồn năng lượng tự nhiên vô biên giúp đỡ người dân trong quá
trình sản xuất lương thực của mình. Mặc dù thời điểm đó họ chưa có những kiến thức về
khoa học nhưng họ đã biết được tầm quan trọng của mặt trời đối với mùa màng và cuộc
sống hàng ngày. Ánh mặt trời không chỉ giúp soi sáng mà họ còn rất mong đợi vào việc
mưa thuận giúp hòa để giúp cánh tác tươi tốt và mùa màng bội thu hơn.
Và nằm đối diện qua tâm với đông chí; chính là tiết hạ chí.

Hình ảnh ngôi sao trên bề mặt trống là biểu tượng cho mặt trời. Người Việt cổ rất coi trọng mặt trời bởi đây là nguồn năng lượng tự nhiên vô biên giúp đỡ người dân trong quá trình sản xuất lương thực của mình. Mặc dù thời điểm đó họ chưa có những kiến thức về khoa học nhưng họ đã biết được tầm quan trọng của mặt trời đối với mùa màng và cuộc sống hàng ngày. Ánh mặt trời không chỉ giúp soi sáng mà họ còn rất mong đợi vào việc mưa thuận giúp hòa để giúp cánh tác tươi tốt và mùa màng bội thu hơn. Và nằm đối diện qua tâm với đông chí; chính là tiết hạ chí.

Ảnh minh họa
ẢKhông phải tự nhiên mà hình ảnh con chim chân cao, mỏ dài và đôi cánh vương cao lại xuất
hiện trên mặt trống. Loài chim này được gọi là chim Lạc, tuy thân hình của chúng rất mảnh
mai nhưng loài chim này lại là biểu tượng của sức sống mãnh liệt và bền bỉ.

Chim Lạc còn mang tới cho người nhìn cảm giác tự do, tự tại, thoải mái và mang trong mình
nhiệt huyết cháy bỏng. Đây cũng chính là khát vọng vươn cao và xa hơn của người Việt
Nam ta từ xưa. Ngày nay, hình ảnh chim Lạc vẫn được sử dụng rất nhiều. Có thể nói đây
cũng chính là biểu tượng mang nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam đã có từ rất lâu đời.

Không phải tự nhiên mà hình ảnh con chim chân cao, mỏ dài và đôi cánh vương cao lại xuất hiện trên mặt trống. Loài chim này được gọi là chim Lạc, tuy thân hình của chúng rất mảnh mai nhưng loài chim này lại là biểu tượng của sức sống mãnh liệt và bền bỉ.

Chim Lạc còn mang tới cho người nhìn cảm giác tự do, tự tại, thoải mái và mang trong mình nhiệt huyết cháy bỏng. Đây cũng chính là khát vọng vươn cao và xa hơn của người Việt Nam ta từ xưa. Ngày nay, hình ảnh chim Lạc vẫn được sử dụng rất nhiều. Có thể nói đây cũng chính là biểu tượng mang nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam đã có từ rất lâu đời.

Ảnh minh họa
Khi nhìn vào họa tiết nhà sàn trên mặt trống đồng Đông Sơn sẽ thấy có tới 2 ngôi nhà.
Những ngôi nhà này đều có điểm chung, đó là có 2 cột phía ngoài và thêm 1 cột ở giữa thực
chất chiếc cột ở giữa chính là chiếc thang để đi lên nhà bởi ngày xưa người ta thường phải
làm nhà sàn để tránh thú dữ.

Điểm khác biệt của 2 ngôi nhà này nằm ở mái nhà; nhiều thông tin cho rằng, ngôi nhà có
mái cong chính là nhà ở của người dân và ngôi nhà mái tròn thường được sử dụng liên quan
đến tín ngưỡng và thờ cúng.
Không chỉ tỉ mỉ trong từng hình ảnh mà ngay đến cả những chi tiết nhỏ trong ngôi nhà cũng
được người Việt cổ khắc họa lại trên bề mặt của trống đồng. Điều này cũng thể hiện sự coi
trọng vấn đề tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh của người Việt Nam chúng ta
đã có từ rất lâu đời.

Khi nhìn vào họa tiết nhà sàn trên mặt trống đồng Đông Sơn sẽ thấy có tới 2 ngôi nhà. Những ngôi nhà này đều có điểm chung, đó là có 2 cột phía ngoài và thêm 1 cột ở giữa thực chất chiếc cột ở giữa chính là chiếc thang để đi lên nhà bởi ngày xưa người ta thường phải làm nhà sàn để tránh thú dữ.

Điểm khác biệt của 2 ngôi nhà này nằm ở mái nhà; nhiều thông tin cho rằng, ngôi nhà có mái cong chính là nhà ở của người dân và ngôi nhà mái tròn thường được sử dụng liên quan đến tín ngưỡng và thờ cúng.

Không chỉ tỉ mỉ trong từng hình ảnh mà ngay đến cả những chi tiết nhỏ trong ngôi nhà cũng được người Việt cổ khắc họa lại trên bề mặt của trống đồng. Điều này cũng thể hiện sự coi trọng vấn đề tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh của người Việt Nam chúng ta đã có từ rất lâu đời.

Ảnh minh họa
Tiếp đến, biểu tượng cho sự phát triển về kỹ thuật quân sự của thời kỳ này chính là những chiếc thuyền. Ở thời kỳ này, người Việt cổ đã bắt đầu biết sử dụng gỗ để xây dựng nhà ở hay đóng ghe, thuyền phục vụ cho việc đánh bắt cá. Hay thậm chí là sử dụng để bảo vệ địch xâm phạm vào lãnh thổ. Trên thuyền sẽ xuất hiện hình ảnh người lính cầm đao, giáo, cung tên, trống trận và có cả những chú chó săn. Ngoài ra, còn rất nhiều những họa tiết khác xuất hiện trên bề mặt và thân của trống đồng Đông Sơn như: con hươu, trâu bò, chim trĩ, con công, chàng bè, chim trích, gà, cóc, các loại cá,... Đây đều là những con vật quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dân..

Tiếp đến, biểu tượng cho sự phát triển về kỹ thuật quân sự của thời kỳ này chính là những chiếc thuyền. Ở thời kỳ này, người Việt cổ đã bắt đầu biết sử dụng gỗ để xây dựng nhà ở hay đóng ghe, thuyền phục vụ cho việc đánh bắt cá. Hay thậm chí là sử dụng để bảo vệ địch xâm phạm vào lãnh thổ. Trên thuyền sẽ xuất hiện hình ảnh người lính cầm đao, giáo, cung tên, trống trận và có cả những chú chó săn.

Ngoài ra, còn rất nhiều những họa tiết khác xuất hiện trên bề mặt và thân của trống đồng Đông Sơn như: con hươu, trâu bò, chim trĩ, con công, chàng bè, chim trích, gà, cóc, các loại cá,... Đây đều là những con vật quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dân.

Mỗi một người dân được khắc lên mặt trống đồng đều thể hiện một hành động khác nhau:
người thì đua thuyền, người thì thực hiện nghi lễ hiến tế, người lại tham gia đánh trống,
đánh chiêng, nhảy múa, người đang giã gạo, đánh cá, làm ruộng. Hay thậm chí là tục đối
đáp, đôi nam nữ ngồi đối diện nắm tay nhau ca hát, đối đáp.
Đây là những hoạt động thể hiện lối sống sinh hoạt thường ngày của người dân: từ hình ảnh
thực hiện công việc hàng ngày, những thói quen sinh hoạt cho tới những dịp lễ hội đều được
khắc họa rất sinh động.

Mỗi một người dân được khắc lên mặt trống đồng đều thể hiện một hành động khác nhau: người thì đua thuyền, người thì thực hiện nghi lễ hiến tế, người lại tham gia đánh trống, đánh chiêng, nhảy múa, người đang giã gạo, đánh cá, làm ruộng. Hay thậm chí là tục đối đáp, đôi nam nữ ngồi đối diện nắm tay nhau ca hát, đối đáp.

Đây là những hoạt động thể hiện lối sống sinh hoạt thường ngày của người dân: từ hình ảnh thực hiện công việc hàng ngày, những thói quen sinh hoạt cho tới những dịp lễ hội đều được khắc họa rất sinh động.

Xuất hiện trên mặt trống đồng Đông Sơn chính là nhạc cụ chính được sử dụng vào thời
kỳ đó: là kèn và trống. Đây chính là 2 loại nhạc cụ thường được chơi vào các dịp lễ hội.
Ngoài ra, họa tiết trống gắn với 2 hình ảnh khác nhau; đầu tiên là chiếc trống được một
người dân đang đánh trong nhà hay trên thuyền để giữ nhịp. Và tiếp đó là chiếc trống
được đặt trên giá sát đất và kèm theo đó là một dàn trống, sẽ có một người cầm chiếc gậy
dài đánh theo chiều đứng. Đây là hình ảnh thường xuất hiện trong dịp lễ hội và cho đến
ngày nay hình ảnh này vẫn có thể thấy trong những ngày hội của người dân tộc Mường ở
tỉnh Hòa Bình.

Xuất hiện trên mặt trống đồng Đông Sơn chính là nhạc cụ chính được sử dụng vào thời kỳ đó: là kèn và trống. Đây chính là 2 loại nhạc cụ thường được chơi vào các dịp lễ hội.

Ngoài ra, họa tiết trống gắn với 2 hình ảnh khác nhau; đầu tiên là chiếc trống được một người dân đang đánh trong nhà hay trên thuyền để giữ nhịp. Và tiếp đó là chiếc trống được đặt trên giá sát đất và kèm theo đó là một dàn trống, sẽ có một người cầm chiếc gậy dài đánh theo chiều đứng. Đây là hình ảnh thường xuất hiện trong dịp lễ hội và cho đến ngày nay hình ảnh này vẫn có thể thấy trong những ngày hội của người dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình.

Ngày nay, tuy rằng các sản phẩm trống đồng không được ứng dụng nhiều vào cuộc sống
mà chỉ sử dụng như một cổ vật trưng bày. Tuy nhiên, những chiếc trống đồng Đông Sơn
vẫn là một di vật rất giá trị, là minh chứng và nền tảng cho sự tiếp nối giữa các thế hệ.
Trống đồng cũng được sử dụng để trưng bày ở rất nhiều phòng làm việc, phòng họp hay
sảnh công ty và các tập đoàn lớn. Đây cũng là món quà lưu niệm quen thuộc để dành tặng
cho lãnh đạo, đối tác, những hội nghị – sự kiện quan trọng. Món quà này không chỉ mang
ý nghĩa về mặt nghệ thuật mà còn là thông điệp quảng bá nét đẹp văn hóa truyền thống
của dân tộc ta.

Ngày nay, tuy rằng các sản phẩm trống đồng không được ứng dụng nhiều vào cuộc sống mà chỉ sử dụng như một cổ vật trưng bày. Tuy nhiên, những chiếc trống đồng Đông Sơn vẫn là một di vật rất giá trị, là minh chứng và nền tảng cho sự tiếp nối giữa các thế hệ.

Trống đồng cũng được sử dụng để trưng bày ở rất nhiều phòng làm việc, phòng họp hay sảnh công ty và các tập đoàn lớn. Đây cũng là món quà lưu niệm quen thuộc để dành tặng cho lãnh đạo, đối tác, những hội nghị – sự kiện quan trọng. Món quà này không chỉ mang ý nghĩa về mặt nghệ thuật mà còn là thông điệp quảng bá nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc ta.

Ảnh minh họa