Tác động của các chính sách và gói hỗ trợ kinh tế của Mỹ đến Việt Nam như thế nào?

10:36 07/05/2021

Nhóm tác giả BIDV dự kiến, nếu tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ đạt 7,7% năm 2021 (như dự báo của Bloomberg Economics) thì GDP Việt Nam sẽ tăng trưởng thêm 1,085 điểm phần trăm hay ít nhất là 0,517 điểm phần trăm.

Tác động của các chính sách và gói hỗ trợ

Thứ nhất, các gói hỗ trợ của Mỹ (trước mắt là gói 1.900 tỷ USD) sẽ thúc đẩy tiêu dùng, cầu hàng hóa – dịch vụ, từ đó tác động tích cực tới hoạt động xuất khẩu của các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Khu vực châu Á được đánh giá là hưởng lợi khá nhiều từ các gói hỗ trợ của Mỹ.

Theo Citi Research, kinh tế Mỹ dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh trong quý II/2021 và tiếp tục tăng mạnh trong ba quý kế tiếp nhờ các gói hỗ trợ này.

Điều này sẽ khiến nhu cầu nhập khẩu của Mỹ tăng lên, đồng nghĩa hoạt động xuất khẩu của các nước châu Á được hưởng lợi, trong đó Việt Nam là nước hưởng lợi nhiều nhất.  

 Theo TS. Cấn Văn Lực.

Theo TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV dự kiến, nếu tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ đạt 7,7% năm 2021 (như dự báo của Bloomberg Economics) thì GDP Việt Nam sẽ tăng trưởng thêm 1,085 điểm phần trăm hay ít nhất là 0,517 điểm phần trăm.

Với mục tiêu trọng tâm của gói hỗ trợ 1.900 tỷ USD là hỗ trợ tài chính cho các cá nhân và hộ gia đình Mỹ, dự kiến đã và sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng đối với các mặt hàng giày dép, quần áo, đồ nội thất, điện thoại di động và thiết bị điện tử, hải sản – các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào Mỹ, chiếm khoảng 76% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ năm 2020.

Trong năm 2020, xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng 25,6% so với năm trước và quý I/2021 tiếp tục tăng 38,9% so với cùng kỳ, giúp Việt Nam trở thành đối tác nhập khẩu lớn thứ 6 của Mỹ.

Theo ước tính của Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV, với gói hỗ trợ 1.900 tỷ USD của Mỹ đang triển khai, dự báo xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng thêm khoảng 2,6 tỷ USD (so với không có gói hỗ trợ), qua đó giúp GDP Việt Nam năm 2021 (sau đánh giá lại) tăng trưởng thêm 0,8 điểm phần trăm (so với không có gói hỗ trợ).

Thứ hai, các gói hỗ trợ của Mỹ có thể khiến dòng vốn vào thị trường châu Á bị thay đổi.

Citi Research nhận định kinh tế Mỹ hồi phục nhờ các gói hỗ trợ sẽ tạo áp lực tăng lạm phát và kinh tế Mỹ phục hồi tăng trưởng mạnh, điều này có thể khiến cho lợi tức trái phiếu chính phủ Mỹ cùng giá trị đồng USD tăng lên, kéo theo dòng vốn đầu tư quay lại thị trường Mỹ, khiến cho thanh khoản thị trường tài chính tại các nước châu Á trở nên căng thẳng hơn.

Thứ ba, các gói hỗ trợ của Mỹ có thể khiến lạm phát toàn cầu tăng, gây áp lực tăng lạm phát và lãi suất đối với các nước châu Á, trong đó có Việt Nam.

Thứ tư, chính sách tiền tệ siêu nới lỏng cùng chính sách tài khóa mở rộng với quy mô lớn khiến tình trạng đầu cơ vào thị trường chứng khoán, bất động sản, tiền kỹ thuật số tăng lên, khiến bất ổn trên thị trường tài chính – tài sản toàn cầu gia tăng.

Khuyến nghị chính sách cho Việt Nam

Thứ nhất, mặc dù ngày 16/4/2021, Bộ Tài chính Mỹ đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách thao túng tiền tệ, song chính sách thương mại của Việt Nam cần tiếp tục được điều hành theo hướng cân bằng hơn cán cân thương mại với Mỹ.

Bên cạnh việc tiếp tục tận dụng cơ hội xuất khẩu hàng tiêu dùng sang Mỹ, Việt Nam cần xem xét tăng cường nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ từ Mỹ, đặc biệt là nông sản, sản phẩm năng lượng, máy móc, thiết bị công nghệ cao, thiết bị y tế, vắc xin phòng chống Covid-19, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV đề xuất.

Ngoài ra, Việt Nam cần tiếp tục phối hợp với Mỹ trong việc trao đổi thông tin về chính sách tiền tệ, tỷ giá, thương mại và các vấn đề khác mà phía Mỹ quan tâm (như an ninh mạng, thuế dịch vụ trực tuyến).

Đồng thời, các cơ quan chức năng, địa phương cần kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi đội lốt thương mại, đội lốt đầu tư để lợi dụng những ưu đãi từ hợp tác Việt – Mỹ, cũng như những hành vi trốn thuế.

Thứ hai, cần tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và điều hành giá cả nhằm kiểm soát tốt lạm phát theo mục tiêu đề ra.

Theo đó, cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt với các kịch bản khi có sự thay đổi chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới; phối kết hợp tốt với chính sách tài khóa, đảm bảo ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá góp phần kiềm chế lạm phát theo mục tiêu.

Cùng với đó, xây dựng lộ trình và phối hợp thực thi kế hoạch tăng giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý (giá xăng dầu, giá điện, giá dịch vụ y tế - giáo dục) một cách nhịp nhàng, hiệu quả, tránh giật cục; tăng cường truyền thông cùng các biện pháp bình ổn giá nhằm giảm thiểu tâm lý lạm phát và hiện tượng “té nước theo mưa”.

Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh, hoàn thiện chính sách ưu đãi nhằm gia tăng tính cạnh tranh của Việt Nam trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước.

Thứ tư, chú trọng tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế, thị trường tài chính – tiền tệ đối với các cú sốc bên ngoài.

Theo đó, cần tiếp tục nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính – tiền tệ; quan tâm hơn đến việc xây dựng mô hình quản lý – giám sát rủi ro hệ thống, mô hình ổn định tài chính – tiền tệ và cơ chế xử lý khủng hoảng tài chính.

Bên cạnh đó, khẩn trương, quyết liệt xử lý những tồn đọng, bất cập về cổ phần hóa, thoái vốn, về xử lý tổ chức tín dụng yếu kém, nợ xấu; tăng năng lực tài chính (nhất là vốn điều lệ) cho các tổ chức tín dụng; tăng dự trữ ngoại hối phù hợp; phát triển cân bằng hơn, minh bạch hơn thị trường tài chính.

Thứ năm, cần tăng cường giám sát nguồn vốn, kiểm soát tình trạng đầu cơ trên thị trường bất động sản (nhất là hiện tượng sốt đất gần đây), thị trường chứng khoán, tiền kỹ thuật số nhằm giảm thiểu rủi ro bong bóng tài sản, hướng dòng vốn vào sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và cũng là để các thị trường này phát triển lành mạnh, bền vững hơn; đóng góp nhiều hơn vào phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

PV