Muốn nhận ưu đãi thuế, phải đáp ứng quy tắc về xuất xứ

00:00 12/10/2020

Ngoài hai ngành công nghiệp dệt may và da giày, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang kỳ vọng sẽ được tạo đà để "cất cánh" nhờ vào việc CPTPP có hiệu lực từ 14-1 và EVFTA được ký kết vào tháng 6 vừa qua. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, điều quan trọng hàng đầu là các doanh nghiệp phải nhận diện và vượt qua thách thức, nếu không, cơ hội sẽ mãi không trở thành hiện thực.

Theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), hiện tại, EU đã dành cho Việt Nam mức thuế ưu đãi - GSP, nhiều mặt hàng thủy sản được hưởng thuế chỉ 4-7% trong khi biểu thuế cơ bản dao động từ 12-24%, khiến Việt Nam có lợi thế hơn hẳn các nước đối thủ trực tiếp như Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc khi các nước này đang phải chịu mức thuế không ưu đãi.

Cơ hội lớn cùng thách thức không nhỏ đang đến với ngành thủy sản, sau khi Việt Nam tham gia một loạt hiệp định thương mại tự do. Ảnh minh họa: TTXVN

Như vậy, điều mà các doanh nghiệp ngành thủy sản quan tâm là, ưu đãi thuế từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) có gì vượt trội so với các ưu đãi thuế khác?

Ưu đãi thuế đồng hành cùng quy tắc xuất xứ

“Khi EVFTA có hiệu lực, đồng thời ưu đãi thuế theo GPS sẽ chấm dứt, đối với một số mặt hàng giảm thuế theo lộ trình, trong 1-2 năm đầu có thể phải chịu mức thuế cao hơn GPS. Tuy nhiên, về lâu dài, phải khẳng định EVFTA mang nhiều lợi ích bền vững hơn cho doanh nghiệp. Bởi sau lộ trình, thuế nhập khẩu vào EU sẽ về 0% với tất cả các mặt hàng. Hơn nữa, Hiệp định này mang tính chất cam kết đa phương, bất cứ thay đổi nào cũng phải được sự đồng thuận từ các bên, trong khi ưu đãi thuế GPS mang tính đơn phương, phía EU có thể rút lại bất cứ lúc nào mà không cần thông báo”, bà Trang phân tích.

Về mặt lý thuyết, nhìn toàn bộ biểu thuế, đối với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thì mức cam kết xoá bỏ thuế cho Việt Nam là 78-95%, đối với EVFTA là 85,6% ngay khi các hiệp định nói trên hiệu lực. Tuy nhiên, theo các chuyên gia VCCI, dường như thủy sản đang được xem là ngành tương đối “nhạy cảm”, bởi tính chất của ngành hoặc một số sự việc trong quá khứ khiến đối tác mở cánh cửa hẹp hơn so với các ngành khác. Hiện EU cam kết xoá ngay 50% số dòng thuế cho thủy sản, còn lại cần lộ trình 3-7 năm.

Đồng hành với đó là câu chuyện về quy tắc xuất xứ hàng hóa. Hiện có 3 loại xuất xứ hàng hóa là xuất xứ thuần túy là toàn bộ nguyên liệu được sản xuất trong nước; xuất xứ nội khối là các nguyên liệu có thể xuất phát từ các nước cùng khối; và xuất xứ một phần khi một phần nguyên liệu không có xuất xứ trong nước hoặc trong khối nhưng đáp ứng được những điều kiện nhất định.

Trước đây, xuất xứ hàng hóa chưa là mối quan tâm lớn như hiện nay do hầu hết các sản phẩm thủy sản đều đáp ứng xuất xứ thuần túy. Tuy nhiên, với sự phát triển của ngành thủy sản nội địa, năng lực sản xuất các doanh nghiệp trong nước không ngừng tăng lên, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu sản xuất theo dây chuyền, nhập nguyên liệu từ nhiều nơi, từ đó, đặt ra vấn đề xác minh nguồn gốc xuất xứ.

Cơ hội đang ở phía trước

Điểm chung của 2 hiệp định nói trên là đều dành phần lớn quy định cho ngành thủy sản. Với CPTPP, quy tắc xuất xứ sản phẩm thủy sản chiếm đến hơn 1/5 tổng số và được quy định rất chi tiết tới từng nhóm hàng, từng sản phẩm hàng hóa. Với EVFTA, các đối tác trong EU thì không yêu cầu cao như vậy nhưng thủy sản cũng được “ưu ái” hơn các ngành còn lại.

“Điều này đủ thấy các đối tác muốn khẳng định, tôi ưu đãi cho bạn chứ không phải người khác, cần có quy tắc xuất xứ để chứng minh hàng hóa đó của mình, nếu đến 90% nguyên liệu cấu thành có xuất xứ từ nước khác thì ưu đãi đó đâu dành cho chúng ta. Vì vậy, cần nhớ rõ, quy tắc xuất xứ hàng hóa là điều kiện quan trọng để được hưởng ưu đãi thuế quan”, bà Trang cho biết.

Về thủ tục chứng nhận xuất xứ, điểm mới là các bên cam kết áp dụng doanh nghiệp được tự chứng nhận xuất xứ, cách này tạo thuận lợi hơn rất nhiều, đồng thời tăng trách nhiệm của doanh nghiệp với hàng hóa. Tuy nhiên, với CPTPP, Việt Nam chưa thực hiện ngay trong 5 năm đầu, còn với EVFTA, chúng ta chưa cam kết chính xác thời gian, chứng nhận xuất xứ vẫn do cơ quan của Bộ Công Thương cấp cho tới khi “cảm thấy phù hợp áp dụng theo phương pháp khác”.

Theo phân tích của VCCI, các nước đều không từ bỏ quyền của mình trong việc đặt các biện pháp phi thuế quan, phần lớn các cam kết trong hiệp định chỉ làm rõ hơn các tiêu chí, cách thức áp dụng các biện pháp này, còn quyền vẫn hoàn toàn nằm trong tay mỗi nước. Trên thực tế, nếu thuế quan giảm bằng 0% thì biện pháp phi thuế qua là biện pháp bị nhiều nước lạm dụng để bảo hộ sản xuất trong nước.

Bên cạnh đó, khác với rào cản thuế, dù có được “xây” cao đến đâu vẫn có thể vượt qua, nhưng với các biện pháp phi thuế quan câu trả lời chỉ “có”, hoặc “không”, yêu cầu các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm đến.

Có thể nói, thực tế nền kinh tế thế giới đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức với ngành thủy sản trong nước. Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung vẫn đang diễn biến khó lường, có thể tạo ra thời cơ nhưng cũng tiềm ẩn những bất ổn. Mức thuế chống bán phá giá cá tra và tôm vào thị trường Mỹ giảm so với kết luận sơ bộ sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này. Tuy nhiên, tình trạng biến đổi khí hậu có những diễn biến phức tạp, nguồn nước cấp cho đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng mạnh do nhiều quốc gia xây đập trên thượng nguồn, trong khi đây là khu vực chiếm đến 90% sản lượng chế biến và nuôi trồng thủy sản của Việt Nam. Thẻ vàng của EC năm 2017 chưa được gỡ bỏ cũng gây những tác động không nhỏ đến xuất khẩu thủy sản.

Tham gia CPTPP, Việt Nam có cơ hội gia tăng xuất khẩu sang 10 thị trường, vốn đang chiếm 25% tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, vì hầu hết được cắt giảm thuế về 0%, bao gồm các mặt hàng chủ lực như tôm đông lạnh, cá tra, cá ngừ, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ... Đặc biệt, với 3 thị trường Việt Nam chưa ký hiệp định song phương cũng áp dụng thuế suất 0% cho thuỷ sản Việt từ các mức cơ bản: 4% với Canada; 6% với Chile và 10-20% với Mexico, chỉ còn số ít mặt hàng giảm theo lộ trình 3-10 năm.

Trong khi đó, EU là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 2 của Việt Nam, sau Mỹ. Thị trường này luôn chiếm trên 17%-18% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Trong đó, với mặt hàng tôm, EU chiếm 22% tỉ trọng xuất khẩu của Việt Nam, cá tra chiếm 11%, các mặt hàng hải sản chiếm 30 -35%.

Ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực sẽ có gần 50% số dòng thuế đang có thuế suất cơ bản 0-22%, trong đó phần lớn thuế cao từ 6-22%, sẽ được giảm về 0% (khoảng 840 dòng thuế). Khoảng 50% số dòng thuế còn lại có thuế suất cơ sở 5,5-26% sẽ được về 0% sau từ 3 đến 7 năm. Riêng cá ngừ đóng hộp và surimi sẽ chịu hạn ngạch thuế quan lần lượt là 11.500 tấn và 500 tấn.

Ngọc Ánh

Tags: