Tiềm năng kinh tế biển của Việt Nam là một tài nguyên vô cùng quý giá. Với hơn 3.260 km đường bờ biển và vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng phát triển kinh tế biển lớn mạnh. Để đánh thức và khai thác đúng tiềm năng này, cần có những biện pháp và chính sách đúng đắn, đồng thời cần sự đồng lòng và nỗ lực của cả chính phủ, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.
Đầu tiên, để đánh thức tiềm năng kinh tế biển, cần tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch và ổn định. Chính phủ cần thúc đẩy việc thiết lập và thực hiện các quy định pháp luật rõ ràng, bảo vệ quyền lợi và định rõ trách nhiệm của các bên liên quan. Đồng thời, cần tăng cường công tác giám sát và kiểm soát để đảm bảo tuân thủ quy định, tránh tình trạng khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường biển.
Thứ hai, cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ để nâng cao năng lực khai thác và chế biến tài nguyên biển. Việc phát triển cơ sở hạ tầng như cảng biển, cảng cá, cơ sở lưu trú du lịch và các hệ thống giao thông liên vùng là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế biển. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong việc khai thác và chế biến tài nguyên biển sẽ giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm.
Thứ ba, cần thúc đẩy nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực kinh tế biển. Chính phủ và các tổ chức nghiên cứu cần đầu tư vào việc tìm hiểu sâu hơn về tài nguyên biển, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu tham gia vào việc ứng dụng công nghệ và tri thức mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có giá trị gia tăng cao từ tài nguyên biển.
Thứ tư, cần xây dựng một hệ thống quản lý bền vững và bảo vệ môi trường biển. Việc bảo vệ môi trường biển là cực kỳ quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững của kinh tế biển. Chính phủ cần thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm và quản lý các khu vực đặc biệt như vùng biển quốc gia, vùng biển sinh quyển và các khu vực đặc biệt khác.
Cuối cùng, để đánh thức tiềm năng kinh tế biển, cần thúc đẩy hợp tác liên kết và quan hệ đối tác quốc tế. Việt Nam có thể hợp tác với các quốc gia khác trong lĩnhvực kinh tế biển như du lịch biển, khai thác tài nguyên biển, nông nghiệp thủy sản và vận tải hàng hải. Việc hợp tác quốc tế sẽ mang lại cơ hội tiếp cận thị trường lớn, chia sẻ kinh nghiệm và công nghệ tiên tiến, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quy mô và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Việt Nam cũng đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật về biển nhưng vẫn còn chưa đầy đủ và chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Cần khẩn trương xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý biển, đảo. Thực hiện phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên biển và hải đảo với phương châm không làm thay quản lý ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò định hướng, điều phối các hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực; giúp khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý theo ngành, lĩnh vực; sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển, hải đảo; thống nhất các hoạt động quản lý tài nguyên, môi trường biển và hải đảo từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo phát triển bền vững biển và hải đảo.
Về vấn đề này, theo TS. Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo theo phương thức tổng hợp đang được áp dụng rất phổ biến tại nhiều nước trên thế giới.
“Thực tiễn kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia có biển trên thế giới cho thấy phương thức quản lý này là phù hợp và bảo đảm hiệu quả nhất”, ông Thi chia sẻ.
Nghệ Nhân