Bộ Công Thương hiến kế đưa vùng Đồng bằng sông Hồng trở thành trung tâm dịch vụ logistics của khu vực

15:34 28/07/2022

Theo Bộ Công Thương, để đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ logistics, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh và bền vững, cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa. 

Theo Bộ Công Thương, để đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ logistics, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh và bền vững, cần nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch.

Cụ thể, sớm hoàn thành các quy hoạch tỉnh, quy hoạch vùng thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 bám sát Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh, bảo đảm cân đối vùng, địa phương và phù hợp với các Quy hoạch cấp quốc gia, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng như mục tiêu, chiến lược phát triển vùng theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc.

Trong đó, cần xác định rõ việc ưu tiên phát triển ngành logistics là một trong những cơ sở quan trọng, xu thế tất yếu để bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Đồng thời, tiếp tục tổ chức thực hiện tốt Phương án quy hoạch hệ thống trung tâm logistics vùng Đồng bằng sông Hồng theo Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 3/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tập trung đầu tư, xây dựng, nâng cấp các trung tâm logistics ứng dụng khoa học công nghệ, thiết bị tiên tiến, hiện đại để nâng cao tính cạnh tranh và chất lượng dịch vụ, giảm chi phí…

Mặt khác, chủ động xây dựng chương trình/kế hoạch, tạo lập các chính sách phù hợp với đặc điểm, lợi thế riêng của từng địa phương và vùng để xúc tiến, thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội từ các quốc gia và đối tác lớn đang có xu hướng dịch chuyển đầu tư về Việt Nam.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư để đẩy mạnh phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là hạ tầng giao thông (cả đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không) và hạ tầng các khu, cụm công nghiệp bảo đảm kết nối đồng bộ, thuận tiện cho lưu thông, trao đổi hàng hóa.

Cùng với đó, chủ động thiết lập quỹ đất sạch để tạo điều kiện thuận lợi, sẵn sàng thu hút các công ty, tập đoàn kinh tế lớn, xuyên quốc gia có uy tín, năng lực về tài chính, công nghệ và quản trị, có khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; thu hút các doanh nghiệp logistics hàng đầu quốc tế đầu tư vào phát triển hạ tầng logistic, góp phần đưa vùng trở thành trung tâm dịch vụ logistics của khu vực Đông Nam Á và thế giới.

Vùng cũng cần chú trọng quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao từ nguồn tại chỗ, có khả năng tiếp nhận và làm chủ công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành kinh tế trong tình hình mới, đặc biệt là ngành dịch vụ logistics.

Hơn nữa, tiếp tục khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, đặc biệt là từ các Hiệp định CPTPP, EVFTA và RCEP; thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của vùng, nhất là các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU... Đặc biệt, cần tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển dịch vụ logistics, bảo đảm đồng bộ, khả thi.

Trong đó, sửa đổi, bổ sung một số quy định về dịch vụ logistics tại Luật Thương mại và các văn bản dưới luật; tạo cơ chế đột phá để xây dựng các tập đoàn mạnh về logistics, xác định các loại hình logistics mũi nhọn có tiềm năng phát triển và đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ, chuyển đổi số.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát cắt giảm các điều kiện về đầu tư kinh doanh không còn phù hợp và đơn giản hóa thành phần hồ sơ trong các thủ tục nhằm rút ngắn thời gian giải quyết và giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của các địa phương trong vùng.

Ngoài ra, xây dựng cơ chế, chính sách liên kết vùng với cơ chế điều phối đủ mạnh, phân định trách nhiệm của các địa phương rõ ràng, làm cho hoạt động liên kết đi vào thực chất, khai thác và tận dụng được tiềm năng và các nguồn lực của vùng và từng địa phương trong vùng.

PV