Việt Nam được hưởng lợi nhất khi gia nhập TPP

00:00 12/10/2020

Hiệp định Thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng vừa đại diện cho Việt Nam ký kết chính thức vào sáng nay (4/2) tại New Zealand được nhận định sẽ mở ra những cơ hội lớn cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao kim ngạch xuất khẩu, nhưng đồng thời cũng đặt ra một loạt các thách thức mới cho Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã có cuộc trả lời phỏng vấn báo chí trước khi sang New Zealand tham gia lễ ký Hiệp định TPP về các biện pháp nhằm vượt qua thách thức để tận dụng các lợi thế mà Hiệp định này mang lại. Về các nội dung cam kết chung trong TPP và các thỏa thuận song phương khác giữa Việt Nam với từng nước thành viên TPP, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết: Trong ba tháng vừa qua, bên cạnh các cam kết chung đạt được trong TPP, Việt Nam đã đạt được thêm một số thỏa thuận song phương với một số nước thành viên TPP mà các thỏa thuận này có tác động quan trọng với một số lĩnh vực mà Việt Nam đang đàm phán. ​Cụ thể, Việt Nam đã đạt được: Thỏa thuận song phương về dệt may với Hoa Kỳ, đạt được am kết của một số nước để tiến tới xem xét công nhận cơ chế kinh tế thị trường của Việt Nam, thỏa thuận của Việt Nam với Australia về việc tăng thêm thời gian lao động cho các thể nhân có điều kiện làm việc tại Australia. Các thỏa thuận thêm này có tác động tích cực giúp cho việc thực thi Hiệp định TPP của phía Việt Nam. ​Về nhận định cho rằng trong số 12 nước thành viên, Việt Nam sẽ được hưởng lợi nhiều nhất và sẽ có mức tăng trưởng cao nhất về GDP và xuất khẩu khi Hiệp định TPP có hiệu lực, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho rằng ý kiến này không sai. Bộ trưởng phân tích, các nước TPP thống nhất với nhau Hiệp định TPP là hiệp định thế hệ mới, chất lượng cao và mục đích là cân bằng lợi ích giữa các nước tham gia trên cơ sở có tính đến sự chênh lệch trình độ phát triển giữa các nước. Nếu so sánh với các nước thành viên TPP, quy mô nền kinh tế của Việt Nam còn nhỏ, trình độ phát triển còn thấp. ​doanh-nhan-nuoc-ngoai

Thời khắc kí Hiệp định Vì vậy khi đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định TPP, rất nhiều nghiên cứu của các tổ chức trong và ngoài nước đều cho rằng Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất qua thực thi TPP, nhất là trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, thu hút dịch vụ và đầu tư. ​Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, giữa lý thuyết và thực tế còn phụ thuộc rất nhiều vào việc Việt Nam sẽ tranh thủ khai thác các lợi thế trong TPP và ứng phó với các thách thức khó khăn như thế nào. Chỉ khi Việt Nam có được các giải pháp phù hợp thì lợi thế tiềm năng mới trở thành hiện thực và các khó khăn mới có thể giải quyết được. ​Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cũng nhận định, những mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam có lợi ích cốt lõi như dệt may, da giày, nông sản, thủy sản sẽ có cơ hội tăng trưởng rất lớn khi TPP có hiệu lực. Tính toán thì cho nhiều kết quả khác nhau và còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng thực thi Hiệp định nhưng bước đầu cho thấy Dệt may, da giày có thể tăng trưởng ít nhất 20%. ​Với nông sản, thủy sản thì có thể tăng trưởng thấp hơn một chút vì xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường TPP, trong đó có Hoa Kỳ, Nhật Bản cũng đã khá lớn nên nếu muốn tăng trưởng với tốc độ cao hơn thì doanh nghiệp thủy sản phải đáp ứng được các yếu tố như mở rộng diện tích nuôi trồng, quan tâm tới chất lượng của sản phẩm, nhất là các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm, về kiểm dịch. ​Nếu các yếu tố này không được đáp ứng tốt thì kim ngạch xuất khẩu không những khó cải thiện mà còn bị chính các rào cản thương mại này kìm hãm. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, nếu doanh nghiệp làm tốt công tác đảm bảo chất lượng và thực thi nghiêm túc các quy định trong TPP thì đây sẽ là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao nhất trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. ​Nói về các giải pháp hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp và doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để vượt qua thách thức, tận dụng hiệu quả nhất TPP, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết, khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007 cũng như khi thực hiện một loạt cam kết trong khung khổ các hiệp định thương mại tự do khác, các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước chuẩn bị về mặt tâm lý, điều kiện để có thể khai thác được các lợi thế do WTO và các hiệp định thương mại tự do mang lại. Các doanh nghiệp cũng đã có các giải pháp để ứng phó với thách thức, tận dụng cơ hội. ​ Vì vậy, khi tham gia TPP, các doanh nghiệp Việt Nam ít nhiều cũng đã có sự chuẩn bị, qua đó có thể rà soát các điều kiện để có thể xây dựng các bước đi, chiến lược để khai thác lợi thế, ứng phó với khó khăn, cũng như có điều kiện để tái cơ cấu, sắp xếp lại sản xuất của doanh nghiệp. ​ Bên cạnh đó, với một số lĩnh vực thì doanh nghiệp Việt Nam cũng đã phải đương đầu với thách thức từ trước đó rồi. Ví dụ như trong lĩnh vực ôtô, cơ khí, bán buôn, bán lẻ, một số lĩnh vực dịch vụ. Còn nếu thực thi TPP, một số lĩnh vực, trong đó có chăn nuôi có thể gặp khó khăn lớn do năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, phương thức sản xuất còn nhỏ lẻ phân tán, chi phí sản xuất còn khá cao và khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng toàn cầu còn hạn chế. ​ Vì vậy, đây là một trong những lĩnh vực rất khó khăn với Việt Nam. Vì thế, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ trong đàm phán TPP, Bộ Công Thương và các bộ ngành liên quan đã thỏa thuận với các nước trong TPP một lộ trình phù hợp để khi kết thúc lộ trình đó, Việt Nam mới phải thực hiện hoàn toàn các cam kết. Còn trong lộ trình đó, Việt Nam sẽ có các bước điều chỉnh dần dần và phù hợp. Đây chính là một biện pháp để bảo vệ sản xuất trong nước. ​ Tuy nhiên, do thời gian bảo hộ này chỉ có hạn và nếu hết thời gian này Việt Nam vẫn không có giải pháp phù hợp thì khả năng cạnh tranh của Việt Nam vẫn sẽ kém. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp ngay từ bây giờ phải có các biện pháp, kế hoạch để phát huy thế mạnh, tập trung vào các sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế hơn. Sau khi thời gian bảo hộ hết, doanh nghiệp có thể đứng vững được và cạnh tranh hiệu quả với các sản phẩm của các nước TPP.​ Ở khía cạnh vĩ mô, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước, các Bộ ngành liên quan cần nghiên cứu để đưa ra được các bộ tiêu chuẩn, các tiêu chí để vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm được phép lưu thông tại Việt Nam và ngăn chặn các sản phẩm không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào Việt Nam, qua đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam vươn lên.​ Cuối cùng, một biện pháp rất quan trọng chính là làm tốt công tác tuyên truyền để cộng động doanh nghiệp nắm bắt thật kỹ càng các nội dung của TPP, qua đó nhận biết được các cơ hội lợi thế cần khai thác triệt để cũng như các thách thức để có biện pháp ứng phó phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. (theo TTXVN)