Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam tăng nhanh

00:00 12/10/2020

Theo thống kê, trong giai đoạn 2012 - 2017, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tăng nhanh, với mức bình quân là 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của doanh nghiệp lớn là 5,3%.

Doanh nghiệp FDI thu hút nhiều nhất về lao động

Theo Kết quả chính thức Tổng điều tra Kinh tế năm 2017 vừa được Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và đầu tư công bố, số doanh nghiệp có đến thời điểm 1/1/2017 là 517,9 nghìn doanh nghiệp (DN), trong đó tổng số DN thực tế đang hoạt động điều tra được là 505,1 nghìn DN và 12,86 nghìn DN đã đăng ký nhưng đang đầu tư, chưa đi vào hoạt động SXKD.

Trong số doanh nghiệp, có 10,1 nghìn DN lớn, tăng 29,6% (tăng gần 2,3 nghìn DN) so với thời điểm 1/1/2012 và chiếm tỷ lệ khiêm tốn với 1,9%; số doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ (doanh nghiệp vừa và nhỏ-DNVVN) là 507,86 nghìn DN, tăng 52,1% (tương đương 174 nghìn DN) so với thời điểm 1/1/2012, chiếm 98,1%.

Cũng theo Kết quả chính thức Tổng điều tra Kinh tế năm 2017, số lượng DNVVN tăng nhanh trong giai đoạn 2012-2017 nhưng số lao động của doanh nghiệp này lại tăng thấp hơn so với DN lớn.

Ảnh minh họa

Theo đó, bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số DNVVN tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,3%. Tuy nhiên, lao động trong các DN lớn tăng nhanh hơn so với các DNVVN, số lao động hiện đang làm việc trong các DN lớn tăng 33,8% trong khi lao động trong các DNVVN chỉ tăng 22,1% so với thời điểm 01/01/2012; bình quân năm giai đoạn 2012-2017 lao động trong DN lớn tăng 6% và DNVVN chỉ tăng 4,1%.

Nếu xét theo loại hình DN, Kết quả chính thức Tổng điều tra Kinh tế năm 2017 cũng cho thấy, số lượng DN nhà nước (DNNN) giảm 18,4% và lao động giảm tới 23,1% so với thời điểm 01/01/2012. Bình quân giai đoạn 2012-2017 mỗi năm giảm 4,0% về số DN và 5,1% về số lao động. Điều này cho thấy chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại các DNNN đã có tiến triển nhưng quá trình thực hiện còn khá chậm.

Số doanh nghiệp FDI tăng tới 54% và lao động tăng tới 62,8% so với thời điểm 1/1/2012. Bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số doanh nghiệp FDI tăng 9% và lao động tăng 10,2%, cao hơn 2 lần so với DNNN. Số DN ngoài nhà nước tại thời điểm 01/01/2017 tăng 52,3% và lao động tăng 27,9%, cao hơn DNNN nhưng thấp hơn doanh nghiệp FDI; bình quân năm giai đoạn 2012 - 2017 số DN ngoài nhà nước tăng 8,8% và lao động tăng 5%. Kết quả này cho thấy DN FDI thu hút nhiều lao động nhất trong 5 năm qua góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động.

Sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được cải thiện

Cũng theo Kết quả chính thức Tổng điều tra Kinh tế năm 2017, mặc dù số lượng DNNN chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng số DN, chỉ với 0,5% nhưng nguồn vốn của khu vực DN này chiếm tới 28,4% tổng nguồn vốn của toàn bộ khu vực DN, cao hơn cả nguồn vốn của khu vực DN FDI (chiếm 18,1%), các DN ngoài nhà nước chiếm 53,5% tổng nguồn vốn nhưng số lượng các DN thuộc loại hình này chiếm tới 96,7% tổng số DN.

Mặc dù nguồn vốn của khu vực DNNN chiếm tỷ trọng lớn song xét về cơ cấu lại chủ yếu là vốn vay, vốn chủ sở hữu của khu vực DN này so với tổng nguồn vốn chỉ chiếm 23,2% trong khi tỷ lệ này của khu vực DN ngoài nhà nước là 30,7% và của khu vực DN FDI là 39,6%.

Vốn bình quân trên một DN năm 2016 đạt 51,6 tỷ đồng/DN, tăng 5,8 tỷ đồng/DN so với năm 2011. Trong đó, vốn bình quân trên 1 DN của loại hình DNNN ở mức cao nhất với 3 nghìn tỷ đồng/DN, nhiều hơn 97,5 lần so với loại hình DN ngoài nhà nước và 8,3 lần so với DN FDI. Vốn bình quân của 1 DNNN tăng cao nhất với khoảng 2 lần so với 2011, trong khi đó của DN ngoài nhà nước là 1,2 lần và của DN FDI là 1,3 lần.

Theo khu vực kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng có quy mô vốn bình quân trên 1 DN ở mức cao nhất, năm 2016 là 63,7 tỷ đồng/DN, cao hơn nhiều so với mức 49 tỷ đồng/DN của năm 2011. Vốn bình quân trên 1 DN của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ở vị trí thứ 2 với 55,3 tỷ đồng/DN (năm 2011 là 41,8 tỷ đồng/DN), thấp nhất là khu vực dịch vụ với vốn bình quân 1 DN năm 2016 là 46,5 tỷ đồng tăng không nhiều so với năm 2011 (44,3 tỷ đồng/DN).

Doanh thu thuần của khu vực doanh nghiệp năm 2016 đạt 17.858 nghìn tỷ đồng, tăng 71,6% (7.450 tỷ đồng) so với năm 2011, doanh thu thuần bình quân năm giai đoạn 2011-2016 tăng 11,4% (tương đương 1.400 nghìn tỷ đồng). Khu vực DN ngoài nhà nước có doanh thu thuần tăng 78,8% (tương đương 4.402 nghìn tỷ đồng) so với năm 2011 và chiếm tỷ trọng cao nhất với 55,9% tổng doanh thu thuần của toàn bộ khu vực DN. Doanh thu thuần bình quân năm giai đoạn 2011-2016 khu vực này đạt cao nhất với 880,5 nghìn tỷ đồng (tăng 12,3%).

Khu vực DN FDI có doanh thu thuần tăng mạnh nhất với 134,5% so với năm 2011, chiếm 27,4% tổng doanh thu thuần, doanh thu thuần bình quân năm đạt 560,7 nghìn tỷ đồng (tăng 18,6%), tuy nhiên lại thấp hơn khu vực DN ngoài nhà nước. Tỷ trọng doanh thu thuần thấp nhất là khu vực DNNN chỉ chiếm 16,7%, doanh thu thuần của khu vực DN này tăng thấp nhất với 244 nghìn tỷ đồng (tăng 8,9%), doanh thu thuần bình quân năm tăng 1,7% (tương đương 48,8 nghìn tỷ đồng).

Hiệu suất sinh lời trên tài sản (tính bằng tổng lợi nhuận trước thuế/tổng tài sản) năm 2016 đạt 2,7% (cao hơn mức 2,5% của năm 2011). Khu vực doanh nghiệp FDI có hiệu suất sinh lời trên tài sản năm 2016 đạt cao nhất và vượt trội so với các loại hình doanh nghiệp khác với 6,9% (cao hơn so mức 4,8% của năm 2011), tiếp đến là khu vực DNNN đạt 2,6% (thấp hơn mức 3,2% của năm 2011) và thấp nhất là khu vực DN ngoài nhà nước 1,4% (năm 2011 là 1,2%). 

Minh Ngọc