Những nhà đại tư sản (doanh nhân) yêu nước nổi tiếng trong lịch sử VN

00:00 12/10/2020

Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ 20 đã sản sinh ra nhiều tư sản Việt giàu có, trong số đó có không ít người yêu nước, đã hiến tặng cả cuộc đời và sản nghiệp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

5 nhà đại tư sản yêu nước nổi tiếng trong lịch sử

Gia đình ông Trịnh Văn Bô hiến 5.000 lượng vàng cho cách mạng

Trinh-Van-Bo-2589-1413003767.jpg

Vợ chồng ông bà Trịnh Văn Bô đã đóng góp hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng.

Ông Trịnh Văn Bô (1914-1988), là con út trong gia đình 3 anh chị em. Cha ông là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có. Bà Minh Hồ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của chồng.

Ông Bô cùng vợ đặt cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất này từng là nơi ở của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây, Bác Hồ đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên Ngôn độc lập.

Thời điểm 1940, ông Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà Thành, giao thương với cả các bạn hàng ở Đông Dương, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh bất động sản.

Là thương nhân giàu có, nhưng gia đình ông lại kinh doanh với triết lý "Buôn bán 10 đồng thì giữ lại 7, còn lại giúp đỡ người nghèo và làm việc phúc đức".

Mùa thu năm 1945, sau khi giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, Chính phủ lâm thời mới thành lập gặp nhiều khó khăn về tài chính. Kho bạc Trung ương lúc đó đối mặt với khoản nợ ngắn hạn phải thanh toán lên đến 564 triệu đồng, trong khi ngân khố chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương, mà gần một nửa là tiền rách chờ thu đổi.

Trước tình thế quá khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng kiến thành lập Quỹ Độc Lập và “Tuần lễ vàng” nhằm thu nhận tài chính và hiện vật nhân dân quyên góp cho Chính phủ. "Tuần lễ vàng" được phát động, gia đình ông đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Không những thế, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động "Tuần lễ vàng", khích lệ giới công thương và các tầng lớp nhân dân quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370 kg vàng.

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ 100 tuổi của cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914 - 2014), Bộ Tài chính đang biên soạn cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình ông. Đồng thời đề xuất UBND thành phố Hà Nội lấy tên cụ Trịnh Văn Bô đặt cho một con đường tại thủ đô.

Bạch Thái Bưởi - ông trùm tàu thuỷ đối đầu Thống soái Bắc Kỳ

Bach-Thai-Buoi_1413076583_1413076606.png

Dù làm ăn với người Pháp, nhưng Bạch Thái Bưởi luôn bênh vực cho người dân bị trị

Bạch Thái Bưởi sinh năm 1874, trong một gia đình nông dân nghèo, họ Đỗ tại làng An Phúc, tỉnh Hà Đông. Cha ông mất sớm, nên ông phải giúp mẹ sinh sống bằng nghề bán hàng rong.

Khi đó, một nhà phú hào họ Bạch thấy ông thông minh, lanh lợi, nên nhận làm con nuôi và đổi lại họ Bạch. Nhờ đó, ông có cơ hội được đi học chữ quốc ngữ, chữ Pháp.

Ban đầu, công việc của ông là làm chân ký lục (nhân viên thư ký) cho một hãng buôn người Pháp ở phố Tràng Tiền (Hà Nội), sau đó sang làm với một hãng thầu công chánh. Nhờ đó, Bạch Thái Bưởi đã học được cách tổ chức, quản lý sản xuất và tiếp xúc với thiết bị, máy móc.

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, khi người Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống. Bạch Thái Bưởi tìm cơ hội trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, bắt đầu bằng việc xây cây cầu dài 3.500 m nối Hà Nội với Gia Lâm.

Sau đó, ông bỏ vốn mua lại một hãng cầm đồ ở Nam Định, rồi mở hiệu cơm Tây ở Thanh Hóa, hãng rượu ở Thái Bình và làm cả cai thầu thuế chợ từ miền Bắc đến miền Trung. Nhưng nghiệp kinh doanh lẫy lừng nhất cho Bạch Thái Bưởi bắt đầu vào năm 1909, khi ông thuê lại ba chiếc tàu của một doanh nghiệp Pháp và mở tuyến giao thông đường biển Nam Định - Hà Nội - Bên Thủy.

Tháng 4/1916, Bạch Thái Bưởi chính thức tuyên bố thành lập Giang hải luân thuyền Bạch Thái công ty, điều hành 17 tuyến đường thủy từ Hà Nội đến Tuyên Quang, vươn ra đến tận các nước như Hong Kong, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc, Singapore...

Chưa hết, năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, Bạch Thái Bưởi mua lại 6 chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7/9/1919, công ty của Bạch Thái Bưởi gây tiếng vang lớn khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Cũng chính nhờ con tàu lớn đầu tiên của Việt Nam này mà Bạch Thái Bưởi được xưng tụng là “Vua tàu thủy Việt Nam".

Có một điều thú vị là dù làm ăn với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của phương Tây, nhưng khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi… Thậm chí, có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế lý tài, ông bị René Robin-Thống soái Bắc kỳ lúc đó - đe dọa: “Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”, ông đáp lại: “Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin”.

Bạch Thái Bưởi được người đương thời và các thế hệ đi sau đánh giá là một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn, có tinh thần tự tôn dân tộc, một tâm hồn Việt… Cũng vì thế mà ông trở thành khuôn mặt nổi tiếng của 30 năm đầu thế kỷ XX. Ngày 22/7/1932, ông mất sau một cơn đau tim đột ngột.

Nguyễn Sơn Hà - người khước từ mọi quyền lợi để theo cách mạng

Nguyen-Son-Ha-1805-1413003767.jpg

Nguyễn Sơn Hà, "ông tổ" của ngành sơn Việt Nam.

Nguyễn Sơn Hà (1894 - 1980) được biết đến như là người khai sinh nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam và là một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc.

Ông sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình có 7 anh chị em. Cha mất khi ông mới 14 tuổi, ông phải bỏ học xin làm phụ bàn giấy cho một hãng buôn của Pháp, rồi sang làm cho hãng sơn dầu Sauvage Cottu ở Hải Phòng. Tại đây, ông không ngừng nung nấu ý chí tạo dựng một hãng sơn dầu của người Việt Nam.

Để giấc mơ thành hiện thực, ông ý thức trước hết phải học, phải hiểu kỹ thuật làm sơn của người phương Tây. Nhưng lúc đó tất cả các tài liệu kỹ thuật này đều viết bằng tiếng Pháp. Để đọc được tủ sách của chủ, ban ngày ông làm việc chăm chỉ, buổi tối tìm thầy học thêm tiếng Pháp, đọc hết tủ sách của ông chủ.

Khi đã nắm bắt kiến thức, để lập nghiệp, ông bán đi chiếc xe đạp lấy tiền làm vốn ban đầu, mở một cửa hàng nhỏ, bên ngoài chuyên nhận việc quét sơn, kẻ biển, quét vôi ve nhà cửa, bên trong âm thầm chế tạo thử sơn dầu.

Sản phẩm đầu tiên mà gia đình ông Nguyễn Sơn Hà tung ra thị trường là thương hiệu “Resistanco”, tiếng Pháp có nghĩa là “bền chặt”, nhưng lại không được người Pháp đánh giá cao. Không bỏ cuộc, ông tiếp tục miệt mài nghiên cứu và cuối cùng, mẫu sơn hoàn hảo ra đời.

Chất lượng sơn của ông đã chinh phục cả người tiêu dùng Pháp và Việt. Hơn nữa, giá thành sơn Resistanco rẻ hơn rất nhiều so với các loại sơn khác. Hãng Descous et Cabaud thấy sơn Résistanco đã có chỗ đứng trên thị trường nên nhận làm đại lý. Từ đó, sơn Résistanco bắt đầu được tiêu thụ khắp nơi trong nước.

Năm 1920, khi vừa tròn 26 tuổi, ông mở được xưởng sơn Gecko tại Hải Phòng, rộng 7.000m2. Không lâu sau đó, sơn Resistanco bắt đầu xuất khẩu sang các nước Đông Dương và tiêu thụ nhanh chóng. Thấy một công ty Việt phát triển quá mạnh, người Pháp khi đó tìm nhiều cách chèn ép việc kinh doanh của gia đình, nhưng Nguyễn Sơn Hà vẫn trụ vững.

Năm 1939, trong một lần vào miền Nam, ông cùng vợ tới thăm Phan Bội Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Lần gặp gỡ nhà yêu nước ở Huế đã tác động sâu sắc đến doanh nhân Nguyễn Sơn Hà. Ông quyết định ra tranh cử hội đồng thành phố, tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền Bá quốc ngữ. Ông từng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói, đứng ra lập trường Dục Anh tại số nhà 46, phố Lạch Tray để nuôi dạy các em bé mồ côi. Trong "Tuần lễ vàng”, ông và gia đình đã hiến toàn bộ nữ trang với khoảng 10,5 kg cho cách mạng.

Sau khi người con trai cả tên Nguyễn Sơn Lâm - Đội trưởng Tự vệ Hải Phòng hy sinh trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến tại mặt trận Đông Khê (Hải Phòng), Nguyễn Sơn Hà đã quyết định đi theo con đường giải phóng dân tộc: bỏ lại toàn bộ tài sản như nhà xưởng, đồn điền, tiền của... đưa toàn bộ gia đình đi theo kháng chiến, mặc dù nhận được nhiều đề nghị từ phía thực dân Pháp sẽ trả lại hoặc đền bù tài sản bị thiệt hại nếu như ông từ bỏ kháng chiến.

Sau Cách mạnh tháng Tám, Nguyễn Sơn Hà trúng cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hải Phòng. Từ đây, ông có nhiều đóng góp cho cách mạng thông qua những sáng kiến của mình, như làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in, vải che mưa, chế tạo lương khô, thuốc ho.

Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khóa  II, III, IV, V. Ông mất tại Hải Phòng năm 1980.

Đỗ Đình Thiện - bỏ thủ đô đưa cả gia đình lên Việt Bắc

Do-Dinh-Thien-4348-1413003767.jpg

Ông Đỗ Đình Thiện cùng gia đình tại chiến khu Việt Bắc

Ông Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi (nay thuộc Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội) trong một gia đình 4 anh chị em, có bố là thư ký cho một chủ đồn điền Pháp nhưng mất sớm. Ông Thiện được mẹ nuôi dưỡng cho học chữ Nho và chữ Quốc ngữ rồi sang Pháp du học.

Tại Pháp ông học trường Đại học Canh Nông (Toulouse), vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1928.

Ông bị cảnh sát Pháp bắt giữ khi trao truyền đơn cách mạng cho những binh sĩ người Việt Nam đang trên đường hồi hương, bị kết án 4 tháng tù và bị trục xuất về nước. Trước khi sang Pháp học, gia đình đã làm lễ đính hôn cho ông với bà Trịnh Thị Điền (SN 1912). Trong khi ông Thiện đang du học ở Pháp thì bà Điền ở trong nước cũng tham gia hoạt động cách mạng, bị bắt và bị kết án tù. Từ khi ông Thiện bị trục xuất về nước và bà Điền ra khỏi tù, ông bà làm đám cưới.

Bị kiểm soát gắt gao, nhà cửa thường xuyên bị khám xét, không thể trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông bà Thiện chuyển sang làm kinh tế, mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi tậu đất, dựng nhà máy, lập đồn điền… để khi có điều kiện sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí mình hoạt động.  Đến đầu những năm 40 của thế kỷ trước, ông bà Thiện đã được giới tư sản Hà Nội biết tiếng. Ông tẩy chay Pháp bằng cả việc không đi xe ô tô của Pháp, mà tậu xe Ford của Mỹ.

Năm 1943, ông Thiện mua đồn điền Chi Nê (Lạc Thủy, Hòa Bình) rộng 7.331 ha, được xây dựng cuối thế kỷ XIX của một chủ đồn điền người Pháp giá 2.000 lượng vàng.

Năm 1946, trước khó khăn của Đảng không có nhà in riêng để in tiền, ông Đỗ Đình Thiện đã đứng tên và bỏ tiền ra mua lại nhà in của Pháp và hiến cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3/1946, nhà máy in tiền Tô-panh được chuyển về đồn điền Chi Nê của gia đình ông Thiện.

Chỉ hai ngày sau khi tuyên bố độc lập, ngày 4/9/1945 Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh đặt ra Quỹ Độc lập để thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân tự nguyện đóng góp. Thời kỳ này, ông Đỗ ĐìnhThiện được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương ở Hà Nội, đóng góp nhiều tiền, vàng cho chính quyền cách mạng. Không những vậy, ông còn mua đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do hoạ sĩ Nguyễn Sáng vẽ với giá một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lạng vàng), sau đó tặng ngay cho Uỷ ban kháng chiến hành chính Thành phố Hà Nội.

Việc làm trên của ông Đỗ Đình Thiện được đánh giá là để nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời để tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng.

Lúc mới giành được chính quyền, Nhà nước chưa có bộ phận lễ tân chuyên trách do vậy việc tiếp các vị khách đặc biệt được giao cho một số gia đình có điều kiện ở Hà Nội. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai của gia đình ông bà Thiện trở thành "nhà khách" của Chính phủ.

Đồn điền Chi Nê không những trở thành nơi dưỡng quân cho các đơn vị trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, điểm dừng chân của nhiều lãnh đạo Đảng. Từ cuối năm 1945 đầu năm 1946, nơi đây còn là cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang Chiến khu 2.

Trong chuyến đi Pháp năm 1946, ông còn trở thành thư ký riêng của Hồ Chủ tịch. Năm 1947, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con (nhỏ nhất 4 tuổi, lớn nhất 12 tuổi) lên Việt Bắc theo đuổi cuộc kháng chiến 9 năm.

Ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam). Khi kháng chiến thắng lợi, gia đình trở về Thủ đô, sống tại nhà riêng ở 76 Nguyễn Du, Hà Nội.

Ông mất ngày 2/1/1972 tại Bệnh viện Việt Xô, hưởng thọ 69 tuổi.

Ngô Tử Hạ - ông chủ nhà in ghét thực dân Pháp
Ngo-Tu-Ha-6054-1413003767.jpg

Ông Ngô Tử Hạ ngoài cùng bên trái.

Trước cách mạng, nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ là mạnh thường quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ông sinh (1882-1973), quê ở Qui Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.

Công việc nặng nhọc, vất vả mà đồng lương chẳng được là bao song Ngô Tử Hạ vẫn kiên nhẫn ở lại làm. Sau vài năm dè sẻn chi tiêu, Ngô Tử Hạ đã dành dụm đủ tiền mua được một chiếc máy in thẻ hương. Ông bèn thôi làm thuê, mà tự mình in thuê vỏ bao thẻ hương. Cứ cần mẫn, dè sẻn, rồi Ngô Tử Hạ cũng có tiền mua thêm một vài chiếc máy gỗ in vỏ bao hương nữa, mượn thêm thợ làm.

Từ bỏ lối làm nghề cò con với những chiếc máy in làm bằng gỗ đơn giản chỉ in được vỏ bao thẻ hương, Ngô Tử Hạ quyết hiện đại hoá dần việc kinh doanh nghề in của mình. Ông mua những chiếc máy in được xem là hiện đại thời bấy giờ, chưa đủ tiền mua nhiều máy, thì ban đầu mua ít, tích luỹ vốn được kha khá nhờ quản lý tốt và tiết kiệm trong chi phí kinh doanh cũng như trong tiêu dùng hàng ngày của gia đình, ông lại bỏ tiền ra mua thêm máy in mới.

Cơ sở đặt máy, lập nhà in, trước ông đi thuê, sau ông mua hẳn một khu đất rộng bên đường phố Lý Quốc Sư, gần đền thờ Lý Triều Quốc sư, lại cũng gần Nhà thờ lớn Hà Nội để xây dựng nhà in. Vị trí nhà in đắc địa, máy in nhiều và hiện đại, thợ in đông, giải quyết chóng vánh, chất lượng các hợp đồng in, uy tín của nhà in Ngô Tử Hạ ngày một được khẳng định. Khách hàng của ông bao gồm cả trong nước, lẫn từ nước ngoài, nhất là nước Pháp.

Tuy nhiên, Ngô Tử Hạ rất căm ghét thực dân Pháp và thường giao hảo với những chí sĩ có lòng yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Đoàn...

Cách mạng tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu làm đại biểu Quốc hội, rồi ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I và là đại biểu cao tuổi nhất.

Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan.

Theo bản kê khai nhà đất xin hiến cho Nhà nước của gia đình cụ Ngô Tử Hạ được lập vào ngày 29/7/1960, ông đã hiến tặng Nhà số 24-48 Lý Quốc Sư và 2/12 Ngõ Huyện (diện tích 2.251 m2), nhà số 60 Nguyễn Du (diện tích 1.095 m2), nhà số 8 Lý Quốc Sư (diện tích 84 m2), nhà số 4 ngõ 339 Thịnh Yên (diện tích 2.210 m2), nhà số 31 Hàng Bông (diện tích 182 m2). Gia đình cụ Ngô chỉ giữ lại 200 m2 ở số nhà 24-48 Lý Quốc Sư và 2/12 Ngõ Huyện để ở và sau này làm nơi thờ tự.

Ông mất năm 1973, thọ 93 tuổi.

Vị doanh nhân hiến hơn 5.000 lượng vàng cho cách mạng

Số vàng gia đình thương nhân Hà thành Trịnh Văn Bô quyên góp tương đương 2 triệu đồng Đông Dương, nguồn lực quý báu trong bối cảnh tài chính đất nước kiệt quệ sau Cách mạng tháng Tám.

Mùa thu năm 1945, bên cạnh niềm hân hoan giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, Chính phủ lâm thời mới thành lập gặp nhiều khó khăn về tài chính. Kho bạc Trung ương lúc đó đối mặt với khoản nợ ngắn hạn phải thanh toán lên đến 564 triệu đồng, trong khi ngân khố chỉ còn hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương mà gần một nửa là tiền rách chờ thu đổi.

Trong thế "ngàn cân treo sợi tóc", mọi công việc từ tổ chức bộ máy Nhà nước, xây dựng lực lượng vũ trang, giải quyết nạn đói, thiên tai… đều cần có tiền, Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng kiến thành lập Quỹ Độc Lập, thu nhận tài chính và hiện vật nhân dân quyên góp cho Chính phủ. Trong khuôn khổ của Quỹ, Tuần lễ vàng được phát động từ ngày 17/9/1945 trên khắp mọi miền đất nước.

tuan-le-vang2-JPG-1375765575_500x0.jpg

Quang cảnh các gia đình tư sản Hà Nội quyên góp trong Tuần lễ Vàng. Ảnh do gia đình cung cấp

Hưởng ứng lời kêu gọi trên, ngay tại Hà Nội, từ những người lao động nghèo đến những nhà tư sản, điền chủ... đều hết lòng đóng góp. Trong số này, nổi bật là gia đình thương nhân Trịnh Văn Bô, chủ tiệm vải Trịnh Phúc Lợi số 48 Hàng Ngang, nổi tiếng Hà thành thời đó. Theo tổng hợp của Bộ Tài chính, lúc khốn khó nhất, gia đình đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Ngoài ra, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động Tuần lễ vàng, khích lệ giới công thương và các tầng lớp nhân dân quyên góp được 20 triệu đồng Đông Dương và 370 kg vàng.

"So với chỉ 1,2 triệu đồng Đông Dương, đa phần rách nát, chờ tiêu hủy trong ngân khố lúc đó, vai trò của những doanh nhân yêu nước như cụ Trịnh Văn Bô lại có ý nghĩa hơn bao giờ hết", Thứ trưởng Nguyễn Công Nghiệp bày tỏ trong một cuộc tọa đàm khoa học Bộ Tài chính tổ chức cuối tháng 7 về chủ đề "Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng".

Hay theo nhận xét của nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Tế: "Đây là một gia đình tiêu biểu, có công lớn với dân tộc, với cách mạng, tạo nguồn tài chính cho những ngày đầu của chính quyền cách mạng non trẻ".

vo-chong-trinh-van-bo-1376714893_500x0.j

Vợ chồng ông Trịnh Văn Bô, bà Hoàng Thị Minh Hồ. Ảnh do gia đình cung cấp

Ông Trịnh Văn Bô sinh năm 1914, là con út trong gia đình 3 anh chị em. Thân sinh là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20. Mẹ ông họ Phan, người gốc Hoa, về sau cùng chồng quản lý thành công hiệu buôn Phúc Lợi. Cậu ruột cũng là chủ một hiệu buôn. Không chỉ là một doanh nhân thành đạt, cha ông còn là thầy của nhiều doanh nhân nổi danh như Nguyễn Đức Mậu (hiệu Phát Đạt), Mai Bá Lân (hiệu Lợi Quyền), Vương Xuân Tọa (hiệu Lợi Hòa)...

Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, ái nữ của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có đất Hà Nội xưa. Trong sự nghiệp kinh doanh của chồng, bà Minh Hồ đóng một vai trò quan trọng. Theo lời kể của bà, toàn bộ tài sản gia đình có được đều nhờ tiệm vải Phúc Lợi. Tiệm không chỉ phục vụ người Việt mà còn giao thương khắp khu vực Đông Dương, Trung Quốc, Nhật Bản, Thụy Sĩ, Ấn Độ...

Cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ năm nay đã gần 100 tuổi, vẫn còn minh mẫn. Tiếp phóng viên VnExpress tại nhà riêng, cụ tự tay rót trà mà không hề run. Khi hỏi đến chuyện kinh doanh của gia đình, cụ kể lại từng chi tiết, từng con số, thi thoảng pha chút dí dỏm của một bà chủ tháo vát đất Hà thành một thời.

"Ngày xưa cụ nội của tôi tham gia phong trào Đông kinh Nghĩa thục. 11 tuổi tôi mới được đi học chữ phổ thông. Được bố dạy chữ nho, học tam tự kinh, nhưng đến 15 tuổi thì thôi, vì con gái ngày xưa không cần học nhiều. Nhưng thêu thùa, cỗ bàn phải biết", cụ nhớ lại thời son rỗi của thiếu nữ phố Hàng Đào, nổi tiếng giàu về cái chữ, nhiều người làm quan. "Các cụ nhà tôi chỉ kinh doanh, làm từ thiện thôi", cụ nói thêm.

Gia đình cụ hiện sống trong căn biệt thự cổ xưa, vẫn giữ nguyên nếp thanh lịch, hiếu khách của người Hà Nội xưa. Biết có khách đến chơi, người con dâu của chuẩn bị một ấm trà quý để cụ tự tay rót. Chiếc bàn nước bằng đá hàng ngày được trải thêm khăn trắng tinh, người con dâu cụ giải thích đây là ý của cụ, khách đến nhà phải thật chu đáo thì cụ mới vừa lòng.

Nhớ lại thời kỳ huy hoàng, làm ăn không biết mệt mỏi của gia đình, vị phu nhân của ông Trịnh Văn Bô nói: “Lúc đó tôi mới 20 tuổi nhưng say sưa với công việc để chiếm lĩnh thị trường. Gia đình buôn bán có uy tín, hàng hóa nhiều, đồng tiền vững giá và không có chuyện khách nợ nần. Do vậy, chỉ từ 30.000 đồng Đông Dương khởi nghiệp, khối tài sản gia đình đã tăng lên hàng trăm lần, giàu có nhất nhì thủ đô”.

Khi cách mạng diễn ra tại thủ đô, vợ chồng ông gác chuyện kinh doanh tất bật để dốc sức lo cho cách mạng. Tham gia Việt Minh từ cuối năm 1944, hay tin cả nước chuẩn bị cho sự kiện lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vợ chồng ông tạo điều kiện nuôi giấu cán bộ Việt Minh ngay tại nhà mình, dù biết sẽ mạo hiểm cơ nghiệp và tính mạng cả gia đình.

Toàn bộ tầng 2 căn nhà 48 Hàng Ngang được bố trí làm nơi làm việc của Bác Hồ và 15 người trong Thường vụ Trung ương Đảng. Cũng chính tại đây, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời. Gia đình ông Trịnh Văn Bô còn sẵn lòng cung cấp tài chính thiết yếu cho Đảng.

Sau 2/9/1945, trong những sự kiện như “Quỹ độc lập”, “Tuần lễ Vàng”, cụ Trịnh Văn Bô và gia đình lại là trụ cột, tấm gương tiêu biểu cho giới công thương cả nước ủng hộ chính quyền nhân dân, ủng hộ nền tài chính cách mạng non trẻ vô điều kiện.

Dốc gần 90% tài sản quyên góp cho Chính phủ, bà Minh Hồ tâm sự gia đình chỉ suy nghĩ giản đơn rằng chính quyền non trẻ có giữ được, thì mình mới mong tiếp tục buôn bán. Nhiều xấp vải trong nhà được bán phá giá để có tiền đài thọ cho mọi chi tiêu, ăn mặc, tiếp khách của Nhà nước. “Vợ chồng tôi có 4 bàn tay, 2 khối óc, chúng tôi có đóng góp hết, chúng tôi lại sẽ làm ra. Nhưng độc lập của dân tộc Việt Nam thì không thể nào để mất, vì mất rồi thì bao giờ thế hệ sau mới lấy lại được”, câu nói bất hủ của bà Hồ được ông Trịnh Đình Hưng - Chủ tịch Hội đồng Họ Trịnh Việt Nam dẫn lại với niềm tự hào.

Hoang-Thi-Minh-Ho-JPG-1376869228_500x0.j

Cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ tiếp Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp tại nhà riêng. Ảnh: MOF

Sau Quốc Khánh, gia đình ông bà được đón Bác Hồ tới chơi và ở lại. Cộng với sự khuyến khích của ông Nguyễn  Lương Bằng - Trưởng Ban Tài chính của Đảng bấy giờ, ông Trịnh Văn Bô đã cùng với một số nhà tư sản yêu nước khác xây dựng Việt Nam Công thương ngân hàng nhằm điều phối công tác tín dụng, thay thế cho Ngân hàng  Đông Dương của Pháp. Chức Chủ tịch được giao cho chính ông Trịnh Văn Bô.

Hòa bình không lâu, thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương, bà Minh Hồ dẫn hơn chục hành viên trong gia đình tản cư lên Cao Bằng, còn ông Trịnh Văn Bô công tác trong chính phủ kháng chiến tại Việt Bắc. Hoàn cảnh trăm bề nguy hiểm, bà Minh Hồ lo liệu cho cả gia đình đủ ăn, đủ mặc dù rất thiếu thốn. Từ một bà chủ đài các nơi phố phường đô hội, bà sẵn sàng nuôi lợn, trồng rau muống, bán chè… kiếm tiền.

“Tưởng như có lúc rơi vào đường cùng nhưng với niềm tin và sự liều lĩnh của một thương nhân, gia đình vẫn vượt qua những lúc khốn cùng nhất”, cụ chia sẻ hồi ức với phóng viên VnExpress.

Sau thời kỳ khốn khó, năm 1955, gia đình ông bà trở về Hà Nội. Ông Trịnh Văn Bô sau đó giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội cho đến ngày nghỉ hưu. Anh trai Trịnh Văn Bính, một trí thức yêu nước được đào tạo về tài chính và thương mại ở Anh, đi theo cách mạng từ những ngày đầu của Cách mạng tháng Tám được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Tài chính, phụ tá Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Việt Nam - ông Phạm Văn Đồng.

Hơn một nửa thế kỷ đã qua đi, tới thăm ngôi nhà gia đình đang sống tại số 34 Hoàng Diệu, cụ ông Trịnh Văn Bô đã tạ thế 25 năm, bàn thờ cụ và các vị thân sinh vẫn được đặt trang trọng trong ngôi biệt thự cổ để các thế hệ sau hương khói. Tiệm vải Phúc Lợi số 48 Hàng Ngang nổi tiếng xưa kia nay trở thành di tích lịch sử đón khách đến thăm quan. Bảy người con của hai cụ không một ai theo nghiệp kinh doanh trước kia mà đều trở thành các kỹ sư, giáo viên làm việc tại các cơ quan Nhà nước.

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ 100 tuổi của cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914 - 2014), Bộ Tài chính đang biên soạn cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình với Đảng, Chính phủ và ngành Tài chính. Ngoài ra, Bộ cũng đề xuất UBND thành phố Hà Nội lấy tên cụ Trịnh Văn Bô đặt cho một con đường tại thủ đô để nhiều thế hệ sau vẫn còn nhớ tới nhà tư sản yêu nước.

Nghệ nhân cuối cùng của dòng họ làm giấy tiến vua

Dòng họ Lê Thế ở phường Bưởi (Tây Hồ, Hà Nội, xưa là phường Yên Thái) từng có hơn 100 năm làm giấy tiến vua. Hiện dòng họ chỉ còn một nghệ nhân giữ nghề và đang canh cánh nỗi lo thất truyền.
Dưới cơn mưa tầm tã sau bão Jebi, bên ấm nước chè nóng trong ngôi nhà ở ngõ 444 Thụy Khuê (Tây Hồ), ông Nguyễn Thế Đoán thong thả kể về nghề làm giấy của dòng họ. Theo nghệ nhân sinh năm 1935 này, tổ tiên của ông bắt đầu làm giấy tiến vua từ thời Hậu Lê đầu thế kỷ 15. Thời đó, mọi sách sử, ghi chép đều phải do người trong hoàng thân nắm giữ, đảm bảo bí mật quốc gia.
ongdoan-1375673985_500x0.jpg
Ông Nguyễn Thế Đoán kể về nghề giấy tiến vua đầy tự hào. Ảnh:Nguyễn Hòa
Với kỹ nghệ làm giấy từ trước đó ở làng giấy truyền thống Yên Thái, lại là dòng dõi quan thần của triều đình nên dòng họ Lê Thế được giao nhiệm vụ làm giấy cho hoàng cung dùng. "Hết thời vua Lê Trang Tông, đến thời kỳ nhà Nguyễn lên ngôi, dòng họ tôi từ bỏ nghề làm giấy cung tiến vua và phải đổi tên thành Nguyễn Thế”, ông Đoán kể về lý do đổi sang họ Nguyễn Thế và duy trì cho đến bây giờ. Ông Đoán cho biết, giấy này chỉ người trong dòng họ mới nắm rõ bí quyết và chỉ cháu đích tôn mới được truyền nghề. Tuy nhiên, ông cũng nói sơ qua một số kỹ năng làm nghề. Công đoạn đầu tiên là phải chọn được cây tốt làm giấy. 6 loại cây có thể dùng để sản xuất giấy Yên Thái là: dó, bo, cãnh, dướng, canh, mộc. Trong đó, cãnh là tốt nhất vì sẽ cho sợi óng, mịn và dai như tơ tằm. Loại cây này mọc ở vùng rừng núi, cây càng nhỏ chất lượng càng tốt. Nguyên liệu cãnh không phong phú bằng dó nên người thợ dùng dó thay thế mà chất lượng vẫn đảm bảo độ bền, dai. Tuy nhiên, nếu dùng dó thì phải phân lớp, dùng từ lớp vỏ thứ ba trở vào. Nếu tận dụng hai lớp vỏ ngoài, mẻ giấy sẽ hỏng. Vỏ cây dó được ngâm vào nước cho đến khi những tạp chất mục nát, sau đó vớt ra và ngâm tiếp với nước vôi loãng khoảng nửa buổi. Sau quá trình ngâm, sợi vỏ cây sẽ được cho vào cối đá to, giã liên tục cho thật nhuyễn thành thứ bột quánh mịn, rồi cho vào đồ hoặc hấp, luộc. Ông Đoán khẳng định, việc đồ vỏ cây là tốt nhất, vì “tránh được hiện tượng dưới nhão, trên khô. Hơi sẽ xâm nhập đều đến các tế bào vỏ cây”. Tiếp đó những khối bột được thả vào tàu xeo giấy. Đây là bể nước có pha sẵn loại keo bằng nhựa cây mò lấy từ vùng Phú Thọ, Thái Nguyên. Nhựa cây này sẽ tạo ra độ bóng và trơn rất đặc biệt cho giấy. Nếu vò nhàu giấy có nhựa cây này thì khi vuốt ra sẽ phẳng phiu. Người xeo giấy phải đảm bảo tờ giấy mỏng đều, mịn và mặt phải trơn. Điều này đòi hỏi bàn tay tài hoa của nghệ nhân, mà theo ông Đoán “làm dâu Nguyễn Thế là phải giỏi việc này”. Khi hoàn thành, tờ giấy trông như tấm lụa màu hanh vàng, các sợi tơ dài và óng đan xen nhau tạo ra độ bền và chắc. Giấy rất nhẹ, không mục nát, không bị mối mọt và độ ẩm rất thấp. "Đến giờ những chiếc quạt giấy ở làng nghề Thạch Thất vẫn còn dư lại chứng tích làm giấy xưa. Với 4-5 lần quét keo lên mặt, một chiếc quạt giấy có thể dùng được đến hết đời người. Hoặc những sách kinh vẫn còn được lưu truyền trong các nhà chùa”, ông Đoán khẳng định sức sống mãnh liệt của giấy làng nghề.
caycanh-1375673985_500x0.jpg
Do không đủ nước làm giấy, cây cãnh, nguyên liệu làm giấy được dòng họ Nguyễn Thế ưa chuộng nhất, giờ chỉ xếp một xó. Ảnh: Nguyễn Hòa.
Quá trình làm giấy đòi hỏi nhiều nước. Thường thì làng Yên Thái lấy nước ở sông Hồng, bên kia đê chợ Bưởi. "Vì thế để theo nhà vua, các cụ chuyển từ Thanh Hóa ra và mua đất ở đây làm giấy. Không phải ngẫu nhiên dòng họ cũng như làng Yên Thái chọn địa điểm làng Bưởi để nuôi nghề. Lý do quan trọng nhất chính là ở gần các con sông lớn”, ông Đoán giải thích. Nghệ nhân cho biết thêm, tất cả sử sách thời Hậu Lê đều do dòng họ Nguyễn Thế đảm nhiệm. "Số lượng cung tiến giấy khá nhiều, cả đời những người Lê Thế dưới thời Hậu Lê chỉ làm mỗi việc ấy mà không được nghỉ ngơi là bao”, ông cho biết thêm. Đến thời nhà Nguyễn, dòng họ không làm giấy cho vua nữa, những trưởng lão định cư ở làng Bưởi và truyền nghề cho lớp con cháu. Ông Đoán là người duy nhất được nắm giữ bí quyết pha chế làm giấy. Năm 1971, ông Đoán làm cho Xí nghiệp in của báo Hà Nội mới. Với bàn tay khéo léo, ông có thể cắt giấy bằng dao xén rất thẳng mà không cần đến máy cắt. Đến năm 1991, ông nghỉ hưu, ấp ủ hy vọng thắp sáng nghề làm giấy truyền thống. Lúc đầu ông định hợp tác với Cục di sản văn hóa, sau đó ông đổi ý làm tại nhà để cung tiến giấy cho các chùa chép kinh. Ông đã đi nhiều nơi mua nguyên, vật liệu nhưng không thể triển khai. Lý do nước sông ô nhiễm, nước giếng khoan của gia đình không đủ để ngâm nguyên liệu. Những cây cãnh nhỏ như cây rơm phải tìm ngược tìm xuôi đành xếp một chỗ làm kỷ niệm. “Nghề này vất vả lắm, giới trẻ giờ chẳng ai muốn làm. Hồn giấy Yên Thái có lẽ cũng chỉ còn nằm trong thơ ca lưu truyền mà thôi”, người nghệ nhân cuối cùng của làng nghề giấy Yên Thái nói với giọng trầm buồn.
Tổng hợp - theo tamnhin.net