Những điểm mới về con dấu doanh nghiệp áp dụng từ 01/01/2021

04:26 03/12/2020

Liên quan đến con dấu của doanh nghiệp, Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập giới thiệu tới bạn đọc 04 quy định mới tại Luật Doanh nghiệp 2020.

 

Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước…
Con dấu thể hiện vị trí pháp lý và khẳng định giá trị pháp lý đối với các văn bản, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức và các chức danh nhà nước…. (Ảnh: minh hoạ, nguồn internet)

Luật Doanh nghiệp 2020 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 xuất hiện 04 điểm mới đáng chú ý xung quanh con dấu của doanh nghiệp so với quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014, cụ thể:

Chữ ký số là dấu của doanh nghiệp

Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 đã ghi nhận tên điều luật là “Dấu của doanh nghiệp” trong khi Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định nội dung này với tên “Con dấu của doanh nghiệp”. Sự khác biệt này chính từ sự ghi nhận hình thức chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử là một hình thức mới của dấu doanh nghiệp.

Khoản 1 Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định 02 hình thức của dấu doanh nghiệp, gồm có dấu được làm tại cơ sở khắc dấu và Dấu dưới hình thức chữ ký số theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.

Khoản 6 Điều 3 Nghị định 130/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số thì “chữ ký số” là một dạng chữ ký điện tử được tạo ra bằng sự biến đổi một thông điệp dữ liệu sử dụng hệ thống mật mã không đối xứng, theo đó, người có được thông điệp dữ liệu ban đầu và khóa công khai của người ký có thể xác định được chính xác: Việc biến đổi nêu trên được tạo ra bằng đúng khóa bí mật tương ứng với khóa công khai trong cùng một cặp khóa; Sự toàn vẹn nội dung của thông điệp dữ liệu kể từ khi thực hiện việc biến đổi nêu trên.

Như vậy, từ ngày 01/01/2021, chữ ký số được công nhận là một hình thức dấu của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp quyết định dấu của chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp

Pháp luật hiện hành không cho phép doanh nghiệp quyết định dấu của chi nhánh, Văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp mà dấu của các đơn vị này sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.

Tại Khoản 2 Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định, doanh nghiệp quyết định loại dấu, số lượng, hình thức và nội dung dấu của doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị khác của doanh nghiệp.

Ngoài ra, từ ngày 01/01/2021, doanh nghiệp được quyết định nội dung về dấu của mình và không bị ràng buộc bởi bất kỳ quy định nào như pháp luật hiện hành. Theo đó, pháp luật trao toàn quyền quyết định về dấu cho doanh nghiệp. Đây là một trong những quy định phù hợp với xu thế độc lập và tiến bộ cho các doanh nghiệp hiện nay.

Doanh nghiệp không cần thông báo mẫu dấu

Theo Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 thì trước khi sử dụng, doanh nghiệp không phải thông báo mẫu con dấu doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp như quy định của pháp luật hiện hành.

Đây là quy định mới tiến bộ, phù hợp với quá trình đơn giản hóa các thủ tục hành chính. Điều này được cộng đồng doanh nghiệp quan tâm, ủng hộ vì không chỉ giảm được thời gian và công sức của mình mà còn giảm được gánh nặng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình hoàn thành các thủ tục cho doanh nghiệp.

Quản lý, lưu giữ dấu theo quy chế của chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp

Khoản 3 Điều 43 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định việc quản lý và lưu giữ dấu được thực hiện theo quy định của Điều lệ công ty hoặc theo quy chế do doanh nghiệp, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp có dấu ban hành. Theo đó, trường hợp chi nhánh văn phòng đại diện hoặc đơn vị khác của doanh nghiệp tự ban hành dấu thì tự quy định về quy chế quản lý và lưu giữ dấu của mình mà không phụ thuộc vào Điều lệ công ty.

Ngoài ra, từ ngày 01/01/2021, doanh nghiệp chỉ được sử dụng dấu trong các giao dịch theo quy định của pháp luật. Điểm này khác với quy định hiện hành khi con dấu được sử dụng cả trong trường hợp các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu.

Trần Linh (T/h)