Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh đa dạ hóa chuỗi cung ứng

09:25 28/10/2020

Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đang phát triển rất nhanh chóng và đóng vai trò đáng kể trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời, sự phát triển của ngành công nghiệp phụ trợ sẽ thu hút nhiều đầu tư chất lượng hơn.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Chính sách chưa hấp dẫn?

Mục tiêu đến năm 2025, DN Việt Nam có khả năng sản xuất các sản phẩm CNHT có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa.

Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ

Đến năm 2030, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu, sản phẩm CNHT sẽ đáp ứng 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp; có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam... 

Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ đang là một trong những ưu tiên hàng đầu. Do vậy, Việt Nam đã đề ra nhiều chính sách lớn nhằm hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam. Điển hình như Nghị định 111 vào năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ bao gồm 6 ngành chính: cơ khí, ô tô, điện tử, dệt may, da giày và công nghiệp công nghệ cao.

Nghị định 111 đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp, ví dụ như miễn, giảm thuế; ưu đãi vay nợ đối với hàng hóa trong ngành công nghiệp phụ trợ. Bên cạnh đó, các dự án ngành công nghiệp phụ trợ  sẽ có mức lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND từ các cơ sở tài chính hoặc các ngân hàng nước ngoài không vượt quá lãi suất cho vay mà ngân hàng nhà nước công bố.

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành CNHT cũng được hưởng nhiều ưu đãi từ Nghị định 111. Điển hình, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể vay tới 70% tổng mức đầu tư, tổng giá trị đã đảm bảo với những điều kiện mà doanh nghiệp có thể đạt được. Nghị định 111 cũng quy định cơ chế chính sách ưu đãi đối với công nghiệp phụ trợ trong việc nghiên cứu và phát triển, áp dụng và chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế, mở rộng thị trường..

Năm 2017, Chính phủ đã phê duyệt quyết định số 68 về chương trình phát triển CNHT giai đoạn 2016-2025, tập trung vào 3 lĩnh vực chủ yếu: linh kiện phụ tùng, dệt may - da giày và công nghiệp công nghệ cao.

Giai đoạn vừa qua, ngành CNHT tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Một trong những ví dụ đó là các hoạt động cộng tác cùng các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định FTA và những dự án với Samsung trong việc đào tạo chuyên gia ở lĩnh vực quản trị doanh nghiệp...

Bà Lê Huyền Nga, Trưởng phòng Công nghiệp hỗ trợ, Cục Công nghiệp (Bộ Công thương) nhấn mạnh, công nghiệp phụ trợ là một trong những lĩnh vực chủ chốt, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp quốc gia cũng như tăng cường giá trị tăng thêm, nâng cao năng lực cạnh tranh các thành phần kinh tế của Việt Nam.

Theo đại diện Cục Công nghiệp (Bộ Công thương), việc triển khai Nghị định 111 đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất, thị trường tiêu thụ trong nước cũng như chuỗi cung ứng nguyên vật liệu nhập khẩu cho ngành công nghiệp sản xuất. Đặc biệt, với tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu nên ảnh hưởng của dịch bệnh đến hoạt động sản xuất của Việt Nam càng rõ ràng.

Công nghiệp hỗ trợ có thêm động lực phát triển - VnExpress Kinh doanh

Nhằm tạo động lực phát triển các doanh nghiệp, tăng cường hơn nữa giá trị tăng thêm của quốc gia, Chính phủ đã phê duyệt Nghị quyết 115 vào tháng 8/2020 về việc thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.

Giải pháp mới cho phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Theo ông Nguyễn Hữu Thành, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), đầu năm 2020, khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát, những ngành công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam đã bị ảnh hưởng nhiều về nguồn cung do phụ thuộc vào nhập khẩu, đặc biệt như điện tử, dệt may, da giày, túi xách, lắp ráp ô tô.

Tuy nhiên, sau quý I/2020, nguồn cung đã dần phục hồi và về cơ bản trở lại như cũ. Hiện nay vấn đề tiêu thụ sản phẩm mới là vướng mắc lớn với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam.

Ông Nguyễn Hữu Thành cho biết, thời gian qua, Bộ Công Thương đã thực hiện nhiều giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất CNHT để tăng cường tính tự chủ cho các ngành sản xuất trong nước, hạn chế tác động của đứt gãy nguồn cung.

Nhằm tạo động lực phát triển các doanh nghiệp, tăng cường hơn nữa giá trị tăng thêm của quốc gia, Chính phủ đã phê duyệt Nghị quyết 115 vào tháng 8/2020 về việc thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.

Nghị quyết 115/NQ-CP đặt mục tiêu đến năm 2025, DN Việt Nam có khả năng sản xuất các sản phẩm CNHT có tính cạnh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; năm 2030 đáp ứng 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp; có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.

Nghị quyết số 115/NQ-CP, Chính phủ đã đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ bao gồm:

Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách: Xây dựng, hoàn thiện và triển khai hiệu quả, đồng bộ các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển (được Nhà nước ưu đãi và hỗ trợ theo quy định tại Luật Đầu tư) đảm bảo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp hỗ trợ, đồng thời xây dựng và triển khai các chính sách hiệu quả cho các ngành công nghiệp vật liệu và phát triển thị trường cho các ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững.

Hai là, đảm bảo và huy động hiệu quả nguồn lực phát triển công nghiệp hỗ trợ: đảm bảo và huy động hiệu quả nguồn lực phát triển công nghiệp hỗ trợ: Bố trí, đảm bảo và huy động nguồn lực hiệu quả để triển khai thực hiện chính sách đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển. Nâng cao vai trò và khuyến khích các địa phương đầu tư các nguồn lực để triển khai các chính sách, chương trình và hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển trên cơ sở căn cứ các quy định của pháp luật và bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương đó.

Ba là, giải pháp về tài chính, tín dụng: Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi về lãi suất đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển khi vay vốn ngắn hạn tại tổ chức tín dụng; Nhà nước thực hiện cấp bù chênh lệch lãi suất đối với các khoản vay trung và dài hạn của các doanh nghiệp để thực hiện dự án sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển bằng nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và các nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài.

Bốn là, phát triển chuỗi giá trị trong nước: Tạo cơ hội hình thành và phát triển chuỗi giá trị trong nước thông qua thu hút đầu tư hiệu quả và thúc đẩy kết nối kinh doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp đa quốc gia, các công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài; xây dựng các khu công nghiệp hỗ trợ tập trung để tạo cụm liên kết ngành; phát triển các ngành công nghiệp vật liệu nhằm tăng cường tính tự chủ về nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Đồng thời, thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh, hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm các doanh nghiệp Việt Nam trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển trở thành các tập đoàn có tầm cỡ khu vực, tạo hiệu ứng lan tỏa và dẫn dắt các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phát triển theo tinh thần Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Năm là, phát triển và bảo vệ thị trường: Thúc đẩy phát triển thị trường nội địa và thị trường ngoài nước để tạo điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển. Cụ thể, bảo đảm quy mô thị trường nội địa thông qua các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế; xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước;

Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hợp lý thị trường nội địa phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Đồng thời, tìm kiếm, mở rộng các thị trường ngoài nước trên cơ sở tận dụng các hiệp định FTA đã ký kết; triển khai các biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển tham gia hiệu quả các hiệp định thương mại tự do; tích cực tháo gỡ các rào cản, chống các hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh; phát triển các loại hình và phương thức kinh doanh thương mại hiện đại.

Sáu là, nâng cao năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ: Xây dựng và vận hành hiệu quả các Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng và địa phương từ vốn đầu tư trung hạn của Trung ương và địa phương trên cơ sở nhu cầu, mục tiêu phát triển và nguồn lực sẵn có nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Hình thành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất nhằm nâng cao năng lực của các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng. Các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng có vai trò kết nối các trung tâm tại địa phương, hình thành hệ sinh thái chung về công nghệ và sản xuất công nghiệp.

Cần tập trung nâng cao năng lực khoa học công nghệ cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển nhằm tạo sự bứt phá về hạ tầng công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học, công nghệ; đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ; tăng cường cơ chế hợp tác công tư trong việc triển khai các dự án đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển.

Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo thông qua các chương trình, kế hoạch quốc gia về nâng cao tay nghề, thúc đẩy liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Cùng với đó, gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động, phát triển hệ thống quản lý và đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp, triển khai mô hình quản lý theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp, áp dụng theo các tiêu chuẩn quốc tế và ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia, đặc biệt đối với các kỹ năng nghề quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Bẩy là, thông tin truyền thông, thống kê và cơ sở dữ liệu: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thống kê, cơ sở dữ liệu công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển nhằm thúc đẩy kết nối giữa nhà cung cấp Việt Nam và các tập đoàn đa quốc gia; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xây dựng chính sách về công nghiệp hỗ trợ; nâng cao chất lượng công tác thống kê, bảo đảm thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác...

Bà Lê Huyền Nga cũng cho rằng, Việt Nam đã có những ưu tiên thương mại hóa các sản phẩm công nghệ, xây dựng và phổ biến các hệ thống công nghệ, từ đó đẩy mạnh hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Nghị quyết 115 cũng được kỳ vọng sẽ loại bỏ những khó khăn và rào cản về mặt cơ chế chính sách, tạo điều kiện phát triển ngành công nghiệp phụ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bảo Trinh