Kinh tế tư nhân: Hai mặt của tấm huy chương

00:00 12/10/2020

Các quốc gia đã thành công và phát triển đều đi theo con đường tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển, cơ chế thị trường được hoạt động ngày một tốt hơn. Do vậy, các chính sách công cần thiết đối với Việt Nam một mặt thúc đẩy các cơ chế thị trường hoạt động đúng nghĩa và hiệu quả hơn, mặt khác cần có biện pháp để hạn chế khuyết tật của thị trường. Trong đó, sự cân bằng giữa 3 trụ cột thị trường - nhà nước - cộng đồng có vai trò quyết định.

Sau khi gia nhập WTO (2007), có ý kiến đánh giá Việt Nam đã không may vì phải chịu tác động của khủng hoảng toàn cầu. Tuy nhiên, cho đến nay những lực cản của Việt Nam chủ yếu do những vấn đề nội tại chứ không phải tác động từ bên ngoài. Một trong những vấn đề chính là khu vực trong nước đã từ bỏ việc tận dụng lợi thế nhằm tập trung cho sản xuất kinh doanh, mà chuyển sang đầu cơ tài sản, đã làm tổn hại nghiêm trọng sức cạnh tranh của khu vực sản xuất.

Từ kỳ vọng quá mức

Trước khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã đạt được những sự cải thiện đáng kể, nhất là sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) được ký kết và có hiệu lực từ năm 2001.

Những lợi thế đã được phát huy, xuất khẩu gia tăng mạnh, nhất là những mặt hàng liên quan đến nông nghiệp và thủy sản hoặc thâm dụng lao động như da giày và dệt may. Nhiều doanh nghiệp, nhất là khu vực dân doanh sau sự cởi mở của Luật Doanh nghiệp năm 2000, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ thực cho xã hội đã ăn nên làm ra với suất sinh lợi khá cao (vài chục phần trăm). Đây chính là nền tảng tạo ra mức tăng trưởng kinh tế 7-8% cho Việt Nam.

Khi gia nhập WTO, hầu hết người dân cũng như nhiều nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng các cơ hội sẽ được hiện thực hóa, và Việt Nam sẽ có được tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan hơn. Những khoản tiết kiệm trong nước được mang ra cùng với một dòng vốn khổng lồ chảy vào Việt Nam đón đầu cơ hội. Chỉ trong mấy tháng, chỉ số VN Index đã tăng gần 4 lần và trong vòng hơn 1 năm, giá bất động sản cũng có mức tăng tương tự. Điều này có nghĩa rằng, nền kinh tế Việt Nam được kỳ vọng “nở ra” nhanh chóng, trong tương lai thấy trước.

Đến thay đổi hành vi

Giá như các doanh nghiệp tận dụng tốt cơ hội mở cửa, tiếp tục tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm, kỳ vọng sẽ thành hiện thực. Kinh tế sẽ tăng trưởng cao hơn, giá trị chứng khoán và bất động sản tăng chóng mặt nêu trên sẽ trở nên hợp lý.

Tuy nhiên, điều không may là hành vi của các doanh nghiệp và nhà đầu tư đã thay đổi. Nếu tiếp tục tập trung vào hoạt động kinh doanh hiện tại, suất sinh lợi chỉ là hàng chục phần trăm, trong khi đầu tư vào các tài sản (cổ phiếu và bất động sản), con số có thể là hàng trăm, thậm chí hàng ngàn phần trăm. Thay vì tiếp tục tập trung các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra của cải cho xã hội, nhiều người đã nhảy vào chứng khoán và bất động sản để đầu cơ tài sản. 

Sự chuyển hướng đồng loạt đã tạo ra cầu đột biến cả về hàng hóa và nguồn nhân lực trong khu vực tài sản. Việc kiếm tiền quá dễ dàng làm cho việc trả lương và chi tiêu trở nên hào phóng hơn. Từ những mức lương không đến nỗi nào trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước đây, nhiều người đã có được những mức lương hay thu nhập chỉ nằm mơ mới thấy. Lúc này mọi người chỉ tập trung vào việc mua mua - bán bán, chứ không còn chí thú làm ăn như trước đây. Những cơ hội đã không được tận dụng, trong khi rắc rối ngày một nhiều hơn và để lại hậu quả ngày hôm nay.

Kinh tế tư nhân: Hai mặt của tấm huy chương ảnh 1Hơn 10 năm trước, thị trường chứng khoán được xem là thời hoàng kim, khi tất cả mọi người, mọi doanh nghiệp đều đổ vào chứng khoán, từ bỏ mọi lợi thế sản xuất kinh doanh, chuyển sang đầu cơ, đã làm tổn hại sức cạnh tranh khu vực sản xuất. Ảnh: Việt Dũng


Thêm dầu vào lửa

Dòng vốn lớn chảy vào làm đồng tiền trong nước lên giá dẫn đến hàng hóa sản xuất trong nước trở nên đắt đỏ hơn so với hàng hóa của các nước khác. Hậu quả là khu vực sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh hơn. Nghiêm trọng ở chỗ là sự bất hợp lý trong các chính sách vĩ mô thời gian qua đã làm cho căn bệnh này trở nên trầm trọng hơn. 

Đầu tiên phải kể đến sự bị động trong việc ứng phó với dòng vốn khổng lồ từ bên ngoài đổ vào Việt Nam trong năm 2007. Lúc bấy giờ, dường như Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chỉ chú trọng làm một việc duy nhất là tung tiền đồng ra để mua USD, mà “quên” mất các giải pháp trung hòa. Hậu quả là nền kinh tế bị “ngập lụt” tiền đồng. Lạm phát bắt đầu phi mã từ cuối năm 2007 và chạm mốc gần 30% vào cuối quý I-2008. 

Việc thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn. Lấy lý do ứng phó với khủng hoảng tài chính thế giới và suy giảm sản xuất kinh doanh trong nước, chính sách tiền tệ đã tiếp tục được nới lỏng. Việc cố gắng ổn định tỷ giá trong bối cảnh lạm phát cao như cú đánh kép vào khu vực sản xuất trong nước.

Trong gian đoạn 2006-2012, mức giá chung của cả nền kinh tế đã tăng gấp đôi, tỷ giá tiền đồng so với USD chỉ tăng 30%, đã làm các sản phẩm nhập khẩu (máy tính, điện thoại của Apple chẳng hạn) rẻ hơn, trong khi gạo hay các sản phẩm khác của ta đắt đỏ hơn. Do vậy, không có gì ngạc nhiên nhiều doanh nghiệp Việt gặp khốn khó trong hoạt động sản xuất kinh doanh buộc phải đóng cửa hay phá sản, cho dù họ không hề có những hoạt động đầu cơ tài sản.

Tiến thoái lưỡng nan

Thời điểm đó nhiều doanh nghiệp rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu buông các hoạt động đầu cơ để tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi (thí dụ dịch vụ taxi chẳng hạn) sẽ tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội. Tuy nhiên, khi đó phần mất từ hoạt động đầu cơ sẽ cao hơn rất nhiều phần được từ hoạt động kinh doanh, và chủ doanh nghiệp có khả năng sẽ trắng tay.

Do vậy, hành vi hợp lý của nhiều doanh nghiệp là tiếp tục tập trung nguồn lực để duy trì các hoạt động có tính đầu cơ với hy vọng thị trường tài sản sẽ nóng trong tương lai để không chỉ tránh được tán gia bại sản và còn có cơ hội làm giàu trở lại. Lúc này, nợ xấu ở các ngân hàng khó mà giải quyết và nguồn lực không được dành cho hoạt động sản xuất kinh doanh thực sự. Hậu quả là kinh tế Việt Nam tiếp tục khó khăn.

Một vấn đề rắc rối nữa là không đơn giản để một số người đã quen với mức thu nhập cao chuyển sang từ bỏ những hoạt động đầu cơ tài sản để quay lại các hoạt động sản xuất kinh doanh, với mức thu nhập thấp hơn nhiều. Một người đã khẳng định được tên tuổi trong ngành tài chính cho rằng, có khi Việt Nam phải mất cả một thế hệ doanh nhân nữa may ra mới làm lại được. 

Trong hoàn cảnh lúc đó, nhiều người tiếp tục bơm tiền với kỳ vọng níu kéo các hoạt động đầu cơ đang thua lỗ, “mặc kệ” các hoạt động kinh doanh chính yếu có hiệu quả của mình. Do vậy, thắt chặt tín dụng để buộc các doanh nghiệp phải cơ cấu lại có lẽ là giải pháp.

Từ đó những người kinh doanh bất cẩn sẽ phải trắng tay, để những người có khả năng hơn tiếp quản và sử dụng các nguồn lực của xã hội hiệu quả hơn - đây chính là triết lý cơ bản của phá sản, hay sự phá hủy sáng tạo. Đương nhiên, đây chỉ là giải pháp tạm thời và Việt Nam cần tiến hành ngay một sự cải cách sâu rộng, toàn diện và thực chất. 

Huỳnh Thế Du (Đại học Fulbright Việt Nam)