“Mời các bạn đang nắm giữ cổ phiếu KTB của CTCP Đầu tư Khoáng sản Tây Bắc đăng ký để tập hợp triệu tập Đại hội đồng cổ đông nhằm tái cấu trúc Công ty. Do Công ty không tiến hành đại hội và sắp phá sản nên cổ đông nhỏ lẻ không đăng ký sẽ mất quyền lợi. Các bạn cho số điện thoại để chúng tôi tiện liên lạc”.
Đó là một trong những lời kêu gọi của cổ đông KTB thông qua Báo Đầu tư Chứng khoán điện tử (tinnhanhchungkhoan.vn) để tìm kiếm tiếng nói chung của những người cùng cảnh ngộ nhằm tìm ra giải pháp cứu vãn tình thế.
Nếu loại trừ ảnh hưởng của giao dịch góp vốn nói trên, lợi nhuận trước thuế năm 2010 của KTB vào khoảng 30 tỷ đồng trên vốn điều lệ 88 tỷ đồng (không tính phần vốn góp tăng thêm từ giao dịch nói trên). Năm 2011 và 2012, lợi nhuận trước thuế của Công ty từ hoạt động chính lần lượt là hơn 38 tỷ đồng và 40,4 tỷ đồng. Tuy nhiên, từ năm 2012, với việc nhận lại quyền khai thác mỏ - từ lý do pháp lý chưa đầy đủ, KTB đã thực hiện điều chỉnh hồi tố lợi nhuận năm 2010.
Điều đáng nói là, KTB đã chia cổ tức bằng cổ phiếu trước đó từ nguồn lợi nhuận này, nên khi phát sinh điều chỉnh hồi tố, Công ty phải trích gần 65 tỷ đồng từ các quỹ thuộc vốn chủ sở hữu để bù đắp vốn điều lệ, đồng thời hạch toán khoản phải thu trị giá 115,122 tỷ đồng tương ứng với khoản thiếu hụt vốn ở phần vốn góp của cổ đông. Phần vốn chủ sở hữu hơn 275 tỷ đồng trên vốn điều lệ 260 tỷ đồng thực tế đã bị thiếu cơ sở hạch toán trên 115 tỷ đồng.
CTCP Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) từng đưa ra dự báo sẽ thu về khoảng 7,2 tỷ USD từ khai thác các mỏ tại Tây Nguyên, Thanh Hóa và tại nước ngoài là Lào, Campuchia, với sản lượng khai thác khoảng 2 triệu tấn trong 3 năm 2010 - 2012. Thế nhưng, năm 2012, con số thực tế là 300.000 tấn, 2 năm liền sau đó chỉ đạt 550.000 tấn do gặp khó khăn về xuất khẩu. Hiện tại, nhiều nhà đầu tư trên thị trường biết đến HAGL với các lĩnh vực chính là cao su, mía đường, bò, bất động sản tại Myanmar, trong khi trước đó, công ty này từng kỳ vọng khai khoáng sẽ thay thế hoàn toàn lĩnh vực bất động sản.
Trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, anh Quang, một môi giới có tiếng trong lĩnh vực khoáng sản tỏ ra tiếc nuối cho một thời kỳ đã qua.
“Tôi có mặt ở khắp các mỏ từ Bắc tới Nam, nhiều nhất là các tỉnh Bình Định, Lào Cai, Yên Bái, Nghệ An… Thuộc mỏ, thuộc anh em trong nghề này còn hơn cả con đường và hàng xóm khu nhà mình. Năm 2010 trở về trước, cứ hoàn thiện xong thủ tục khai thác mỏ là nhiều người đã kiếm được tiền tỷ”, anh Quang nói.
Dù là người có nghề, có quan hệ, am hiểu các mỏ, nhưng từ năm 2012 đến nay, có khi cả năm anh mới thành công được một thương vụ giao dịch mỏ.
“Người bán nhiều, nhưng người mua không có. Những doanh nghiệp đầu tư lớn cho mỏ giai đoạn bùng nổ 2008 - 2010 trong lĩnh vực khai thác mỏ kim loại hầu hết đều rơi vào tình trạng thua lỗ, phá sản”, anh Quang cho biết.
Nhưng những nguyên nhân trên không phải là tất cả. Các doanh nghiệp ngành khoáng sản luôn đối mặt với rủi ro về trữ lượng. Quá trình từ khi nghiên cứu đến khi được chấp thuận khai thác thường kéo dài hàng năm, với chi phí không nhỏ, nhưng doanh nghiệp chưa chắc đã được chấp thuận khai thác. Rủi ro hơn, có những mỏ nghiên cứu khả thi tốt, dự báo hiệu quả khai thác cao, nhưng thực tế lại èo uột.
Thống kê của tỉnh Yên Bái cho thấy, năm 2015, tỉnh có 31 trên 32 doanh nghiệp khai thác, chế biến quặng sắt phải đóng cửa, lượng quặng tinh tồn đọng lớn vì càng sản xuất càng lỗ. Đầu tư máy móc cho nghiền tuyển quặng sắt trị giá hàng trăm tỷ đồng đang có nguy cơ trở thành sắt vụn do ngừng sản xuất và doanh nghiệp phải bán dần các thiết bị để có tiền trả lương công nhân. Nợ ngân hàng chồng chất, trong khi do đặc thù địa lý, các mỏ ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn hiểm trở, chỉ tính riêng chi phí vận chuyển quặng đã lên tới gần 500.000 đồng/tấn, trên giá bán quặng cùng thời điểm là 1,1 triệu đồng/tấn, khiến doanh nghiệp khai thác quặng sắt không còn đường xoay xở.
Tại Hà Giang, thống kê cuối năm 2015 của tỉnh này cho thấy, Hà Giang có 52 giấy phép khai thác khoáng sản kim loại còn hiệu lực. Trong số này, 5 giấy phép khai thác các loại khoáng sản như sắt, antimon, thiếc, vonfram được cấp phép bởi Bộ Tài nguyên và Môi trường; 47 giấy phép khai thác mangan, sắt, chì, kẽm, antimon, vàng được cấp phép bởi Ủy ban nhân dân tỉnh. Thời điểm trên, tỉnh chỉ có 11 dự án đang hoạt động, 20 dự án đang tạm dừng hoạt động, 21 dự án chưa đi vào hoạt động, 12 dự án bị thu hồi giấy phép hoặc giấy phép hết thời hạn.
Người lao động bị ảnh hưởng nặng nề
Từ năm 2012, tỉnh Lào Cai đã phải lên tiếng kêu cứu cho các doanh nghiệp nhóm khai khoáng kim loại, khi gần hết năm trôi qua, các doanh nghiệp nhóm này mới chỉ hoàn thành 50% kế hoạch khai thác, trong đó nhiều nhóm ngành hoàn thành dưới 5% kế hoạch (quặng sắt, chì, kẽm…). Thực tế này ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và thu ngân sách của tỉnh, khi năm trước đó (2011), nhóm doanh nghiệp này đóng góp 75% giá trị sản xuất công nghiệp của Lào Cai, tạo công ăn việc làm cho hơn 10.000 lao động.
Câu chuyện của các doanh nghiệp khai khoáng tại Lào Cai phần nào phản ánh thực trạng chung của ngành trên cả nước.
Nhiều doanh nghiệp gặp khó về đầu ra, dẫn tới mất thanh khoản, buộc phải cắt giảm lương, giảm số lượng lao động. Dữ liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2015, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp khai khoáng giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2014; 6 tháng đầu năm 2016, con số này giảm 3,6% so với cùng kỳ năm 2015. Trước đó, từ năm 2012, số lượng lao động tại các doanh nghiệp nhóm này đã có một đợt sụt giảm mạnh.
Tại một số doanh nghiệp khai khoáng niêm yết, thống kê giai đoạn 2013 - 2015 cho thấy, có những doanh nghiệp gần như không có dòng tiền cho chi trả lương cho người lao động.
Nhiều doanh nghiệp niêm yết lao đao
Giai đoạn 2011 - 2012, giới chuyên gia cho rằng, với sức ép về yêu cầu xuất khẩu quặng qua chế biến, hoạt động mua bán - sáp nhập (M&A) lĩnh vực khai khoáng sẽ tăng lên, tạo cơ hội cho những “ông lớn” thực sự trong ngành có điều kiện đầu tư nhà máy luyện quặng.
Tuy nhiên, M&A trong lĩnh vực này không đơn giản. Để có thể M&A, các mỏ phải có trữ lượng đủ lớn, tỷ lệ quặng cao, điều kiện khai thác thuận lợi… Trong khi đó, có rất nhiều mỏ có tỷ lệ quặng thấp, chi phí khai thác cao, điều kiện vận chuyển khó khăn.
Đầu năm 2016, thông tin được thị trường quan tâm nhất đối với lĩnh vực khai khoáng kim loại, luyện kim là CTCP Đầu tư Khoáng sản An Thông xin trả lại 2 mỏ sắt Tùng Bá, Cao Linh - Khuôn Làng vì quá khó khăn, bị thua lỗ tại 2 mỏ này. Tỷ lệ quặng thấp dẫn đến chi phí chế biến cao, khó cạnh tranh với các mỏ lớn trên thế giới, chi phí khắc phục môi trường quá lớn, trong khi giá quặng sắt thô thế giới giảm từ 30 - 50% so với đầu năm 2014, nên cuối năm 2015, Khoáng sản An Thông lỗ 205 tỷ đồng.
Đầu tư Khoáng sản An Thông là công ty con của CTCP Tập đoàn Hòa Phát - một doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực khai khoáng và là công ty niêm yết duy nhất có thể thực hiện chu trình hoàn chỉnh của lĩnh vực thép từ khâu chế khai khoáng - luyện quặng - cán thép, còn xin trả lại mỏ, thì những doanh nghiệp khai thác quy mô nhỏ hơn, không có điều kiện đầu tư toàn bộ quá trình... “chết lâm sàng” là điều dễ hiểu. Từ năm 2012 trở lại đây, nhiều doanh nghiệp ngành khai khoáng niêm yết rơi vào tình trạng này như: KSS, KHB, KSA, KSH, LCM, BGM…
Sau sự kiện “con voi chui lọt lỗ kim” tại CTCP Khoáng sản miền Trung (MTM) mà Báo Đầu tư Chứng khoán từng có bài phản ánh, nhiều công ty chứng khoán tỏ ra thận trọng với nhóm cổ phiếu khoáng sản khi gửi thư thông báo tới khách hàng về việc không cho một loạt cổ phiếu nhóm này vào danh mục tài sản cầm cố, dù vẫn nằm trong danh sách được phép giao dịch ký quỹ.
… nhưng không phải tất cả
Nhìn lại diễn biến ngành, các doanh nghiệp nhóm ngành khai khoáng bị ảnh hưởng nặng nề đều có một đặc điểm chủ yếu là hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản kim loại. Ngay cả CTCP Khoáng sản Bình Định (BMC), doanh nghiệp chuyên khai thác titan, tưởng chừng như đứng ngoài “cơn bão”, thì năm 2015 cũng bị sụt giảm gần 43% lợi nhuận so với năm 2014, trong khi sản lượng tiêu thụ chỉ giảm nhẹ.
Tuy nhiên, vẫn có những doanh nghiệp trong ngành hoạt động khả quan. Chẳng hạn, CTCP Đá Núi Nhỏ (NNC) đạt 123,4 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế năm 2015 trên vốn điều lệ 131,5 tỷ đồng (hiện đã tăng lên 164,4 tỷ đồng do chia cổ tức bằng cổ phiếu). Giá cổ phiếu NNC có xu hướng tăng kể từ khi niêm yết (23/6/2010) đến nay, với mức tăng giá khoảng 1.600% từ mức giá đáy.
Một số cổ phiếu khác được nhiều nhà đầu tư quan tâm là MSR của CTCP Tài Nguyên Ma san và MTA của Tổng công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh, khi giá cổ phiếu đều tăng và thanh khoản khá cao. MSR là công ty con của Tập đoàn Masan, quản lý và phát triển Dự án Mỏ đa kim Núi Pháo tại Thái Nguyên - một trong những mỏ vonfram lớn nhất thế giới (bên ngoài Trung Quốc).
Quý I/2016, MSR đạt doanh thu thuần 806 tỷ đồng; lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao đạt 449 tỷ đồng, tăng 31,3%; lợi nhuận thuần phân bổ cho cổ đông là 11 tỷ đồng (cùng kỳ năm ngoái lỗ 89 tỷ đồng). Từ đầu đến nay, giá cổ phiếu MSR tăng 50%, đạt 17.700 đồng/CP. Còn MTA có hoạt động chính là khai thác, chế biến, kinh doanh và xuất nhập khẩu các loại khoáng sản, quặng có chất phóng xạ, với các sản phẩm truyền thống như Ilmenit, Zicon, Rutile…
Kết quả kinh doanh quý I/2016 của MTA kém khả quan khi đạt 292 tỷ đồng doanh thu và 1,4 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế (cùng kỳ lãi sau thuế hơn 18 tỷ đồng. Từ đầu năm 2016, giá cổ phiếu MTA tăng từ mức 4.200/CP lên 5.900 đồng/CP khi kết thúc ngày 8/7.
Chính sách chung về thuế, phí… ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp khai khoáng, nhưng chính sách về xuất khẩu không tác động nhiều đến các doanh nghiệp khai khoáng hoạt động trong lĩnh vực vật liệu xây dựng như: khai thác cát, sỏi, đá… Câu chuyện đáng quan tâm của các doanh nghiệp trong nhóm này là sở hữu được mỏ đất, đá nào?
Trong lĩnh vực khai khoáng kim loại, với sự trở lại ngoạn mục của giá quặng thế giới, câu chuyện cần quan tâm là mỏ quặng như thế nào? Việc Tập đoàn Hòa Phát xin trả 2 mỏ, nhưng lại đưa kế hoạch xây dựng nhà máy thép có vốn đầu tư lên tới hàng tỷ USD tại Hà Tĩnh cho thấy, nếu lựa chọn được mỏ tốt, thuận lợi về khai thác…, thì khai khoáng kim loại vẫn có thể là khoản đầu tư hấp dẫn.